ĐỌC
“TRẦM TÍCH” TẬP THƠ THỤY SƠN
Châu Thạch
Muốn biết nhà thơ Thụy Sơn (Đà Nẵng) vì sao lấy tên
“TRẦM TÍCH “ cho tập thơ xuất bản lần nầy thì chắc phải hỏi thẳng tác giả. Tuy
thế đọc cái tên “TRẦM TÍCH ” của tác phẩm ta cũng có ý niệm về những gì nhà thơ
muốn gởi vào tập thơ này. Nghĩa của chữ trầm tích về vật chất là những gì chìm
xuống, lắng đọng lâu ngày trong nước. Nghĩa của chữ trầm tích hiểu theo tinh thần
là những gì sâu lắng trong tâm hồn qua năm tháng học hỏi, suy tư và chiêm nghiệm.
Trầm còn là sự thanh trong của âm thanh dịu dàng, giúp cho mọi người sống chậm
lại để cảm nhận những điều tiềm ẩn sâu xa của nhạc. Vậy thì, với tập thơ lấy chủ
đề là TRẦM TÍCH, nhà thơ Thụy Sơn muốn gởi vào đó những tinh túy chắc lọc được
trong cuộc sống đã lắng đọng trong tâm hồn mình bấy lâu nay bằng tiếng thơ cô đọng
của mình.
Nhà
thơ Thụy Sơn
Đọc toàn bộ tập thơ, tôi có ý nghĩ mỗi bài thơ của Thụy
Sơn, hay nói sâu hơn, mỗi câu thơ của Thụy Sơn viết trong tập thơ nầy cũng là một
trầm tích. Bởi thơ của chị ở đây không viết theo cảm xúc bất ngờ đến, mà mỗi
dòng thơ là một dòng tư tưởng, toát yếu những tư duy chất chứa tháng năm trong
tâm linh một người yêu thơ và mộ đạo.
Vào đầu tập thơ ta gặp ngay một đóa Vô Thường. Đóa Vô
Thường của Thụy Sơn khác với đóa Vô Thường thấy nhiều ở những tác giả thiền
thi:
Ta
về
Chăm
ngọn cỏ vườn
Chờ
tâm
Trổ
đóa vô thường
An
nhiên
Mòn
đêm
Chưa
thuộc chữ THIỀN
Thấy
trăng
Tròn
khuyết bên hiên
Giật
mình!
(Đóa
Vô Thường)
Đọc thơ ta hiểu ngay đóa Vô Thường của nhà thơ chưa nở.
Chữ “Giật mình” thổ lộ cho ta hiểu bản chất tục lụy còn trong con người thi sĩ.
Đó là một bài thơ khiêm nhường, nói thật cái thấy trong tâm khảm của mình, khác
hoàn toàn với những bài thơ dùng chữ “thường hằng”, dùng chữ “vô quái ngại” để
biến cái tôi ô trọc của mình thành ra thanh cao siêu thoát.
Nhà thơ Thụy Sơn có những câu thơ cô đọng triết lý đạo
Phật quá hay. Để nói về luân hồi, Thụy Sơn chỉ dùng một chiếc lá thôi mà gói trọn
trong đó vạn mùa thu, gọi trọn trong đó sự phôi pha của vạn kiếp người:
Ta
ngồi
Lượm...chút
mong manh
Ô
hay!
Kiếp
lá vàng hanh
Luân
hồi.
(Chiếc
Lá Luân Hồi)
Để nói về sự quan trọng của nghiệp lực, Thụy Sơn chỉ
dùng một câu kinh bị rơi mất để hình thành một câu chuyện luân hồi lý thú:
Qua
sông
Làm
rớt câu kinh
Ngược
luân hồi
Trả
ba sinh kiếp nầy
(Nghiệp)
Để nói về nhân duyên của kiếp người, Thụy Sơn chỉ dùng
một hạt sương mà bao trùm cả không gian, bao trùm cả thời gian duyên khởi của
nó:
Ngàn
xưa
Từ
hạt sương tan
Duyên
sinh trên nhánh
Nắng
vàng luân lưu
Giữa
đời
Cười
khóc thật hư
Ngàn
sau
Còn
vọng âm dư Kiếp người...
(Duyên
Sinh)
Không gì giãi nghĩa về luân hồi, về nghiệp lực, về vô
thường gọn và dễ hiểu hơn bằng hình ảnh một hạt sương mong manh cũng phải qua
khóc cười của đời, chịu nhiều hỷ nộ ái ố của kiếp nhân sinh.
Để nói về chữ Tịnh, Thụy Sơn không vội vàng quay về
bên trong để tìm tâm Phật của mình. Nhà thơ đã để linh hồn mình tan vào trong
mênh mông:
Trăng
về trăng tỉnh mặc
Sương
đến sương lạnh câm
Đêm
và tôi và bóng
Tôi
tan vào mênh mông...
(Tịnh)
Tan vào trong mênh mông nghĩa là vô vi cùng đất trời,
hòa chung sự tĩnh lặng của thiên nhiên để linh hồn trong sạch. Tất nhiên khi
linh hồn trong sạch, nhà thơ quay vào nhìn lại nội tâm, không còn qua lăng kính
trần gian, thì cái tôi có tâm Phật dễ dàng hiển hiện.
Về những bài thơ viết riêng cho đời thường của mình,
sâu đậm những thăng hoa hay trăn trở về cuộc sống, nhà thơ Thụy Sơn cũng đều gởi
vào đó bàng bạc những tư duy sâu sắc, tạo một tiếng thơ trầm lắng và thư thái,
giống như từng tiếng chuông thong thả vọng giữa không gian, trong bầu trời cao
rộng. Hãy đọc “Trăng Vỡ”:
Mặc
trời cao
Mặc
đất sâu
Đò
ta
Lặng
giữa tinh cầu thả trôi
Chẳng
chờ mai
Chẳng
đợi sau
Giỏ
đầy trăng vỡ...
Một
màu nhất như!
Bảy câu thơ đầu mang tư tưởng Lão Tử, thả lỏng tâm hồn
chìm trong vạn vật. Câu thơ chót trở thành câu thơ viên mãn của nhà Phật, “một
màu nhất như” có nghĩa là một màu Như Lai trọn vẹn. Nhìn trăng vỡ tức là nhìn
cái đẹp bị tan tác. Đựng trăng vỡ trong chiếc giỏ đầy tức là chiêm nghiệm sự vô
thường trong trời đất. Và thấy trăng một màu nhất như tức là ngộ được màu chân
như của trí tuệ, của Như Lai qua chiếc giỏ ấy.
Thụy Sơn viết về mùa cũng khác lạ. Nhà thơ chỉ dùng một
chữ “trút lá” mà ta thấy cả mùa thu của đời người vừa đẹp như nắng hoàng hôn mà
vừa sầu như cây trút lá:
Ngày
sắp tắt
Nhận
ra chiều đẹp quá
Đón
hoàng hôn
Chút
nắng cuối trời phai
Lối
đi qua
Để
lại bóng vương dài
Chờ
ta với
Cây
đời đang trút lá…
(Trút
Lá)
Nhà thơ biết đời mình cũng đã vào thu. Nhà thơ có chút
bi quan khi nhìn mùa lá rụng. Tiếng kêu “Chờ ta với/Cây đời đang trút lá” như một
tiếng gọi âm vọng trong rừng thu và đồng vọng vào tâm tư những ai đã thấy đời
mình xế bóng. Thế nhưng tiếng gọi đó không thảng thốt. Tiếng gọi đó vang lên
như tiếng gọi một người thân đi phía trước. Từ đó ta hiểu được sự an nhiên,
bình tịnh và tự tại trong tâm hồn tác giả, bởi đã biết đời mình như một “Đời
Sông” sẽ trôi vào biển lớn:
Buồn
gì
Mây
xuống trắng sông
Nặng
lòng chi
Những
đục trong ao người
Ta
ngồi
Nhìn
được mất trôi
Đời
sông
Cũng
một dòng thôi về nguồn.
(Đời Sông)
Thật tình với tôi, tất cả những bài thơ trong “TRẦM
TÍCH ” đều hay. Trầm tích phần nhiều dùng để chỉ sự tích tụ những thứ qúy giá
và hiếm có trong đời. Thơ Thùy Sơn trong “Trầm Tích” cũng hiếm câu, hiếm chữ. Mỗi
bài thơ đều hướng về Phật pháp nhưng không phải là một bài thuyết pháp hay một
gói từ ngữ để bày tỏ sự am tường đạo lý cao siêu. Đọc Thụy Sơn ta thấy tiếng
thơ chính như tiếng chuông. Thanh âm phát ra từ chuông ấy bởi đồng và vàng đúc
nên nó. Chuông đó rung lên bởi cánh tay nghệ thuật của con người vừa có đạo hạnh
vừa thẩm thấu âm thanh tác động vào, cho nên nó như vừa có linh hồn của thơ vừa
có linh hồn của đạo, hòa quyện, âm vang, truyền cảm đến người những cảm xúc thật
sự thăng hoa.
“TRẦM TÍCH ” đúng là trầm tích của thơ, lắng xuống từ
tâm hồn như mặt nước vô biên. Châu Thạch tôi, vì không phải là chuyên nghiệp,
nên chỉ vớt được một vài viên đá lạ giới thiệu với đời, mong được hé lộ một
chút gì trân quý trong kho trầm tích của Thụy Sơn
Đà Nẵng,16/11/2018
Châu Thạch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét