BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phong tục tập quán. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phong tục tập quán. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 22 tháng 1, 2025

TẾT – Nguyễn Xuân Diện



Tết là tiếng Việt. Người Trung Hoa chỉ có “tiết” mà không có Tết.
Tiết là nghĩa gốc là đốt, lóng thực vật; như đốt tre, trúc, tức là cái khoanh cứng chia cây tre trúc thành từng đoạn (đốt).

Thời gian trong vũ trụ mênh mông quá, nên người Trung Hoa cổ đại phải phân khúc, chia đoạn ra thành từng canh, từng khắc, nay gọi là giờ, phút, giây. Đêm thì gọi là canh - Đêm năm canh (mỗi canh giờ là 2 tiếng); Ngày sáu khắc. Năm có bốn mùa, 24 tiết khí. Tiết đầu tiên sau giao thừa là Tiết Nguyên đán (Nguyên: Đầu, đầu tiên. Đán: Mặt trời ló lên, là ngày).


Ngày đầu năm người Trung Hoa gọi là Tiết Nguyên đán. Người Việt gọi là Tết Cả, tức là Tết đầu tiên trong năm, cũng là Tết lớn nhất trong năm.
Người Việt dùng âm lịch, tức là lịch mặt trăng. Người Trung Hoa cũng dùng lịch mặt trăng. Nhưng cách tính và làm lịch của ta khác Trung Hoa, điều này đã được các cụ Hoàng Xuân Hãn, Lê Thành Lân nói từ lâu.
                                                                             Nguyễn Xuân Diện

Thứ Năm, 16 tháng 1, 2025

TẠI SAO GỌI THÁNG GIÊNG (ÂM LỊCH) THAY CHO THÁNG 1 ? - Theo Fb Văn Hoá Việt Nam



Tháng Giêng là tháng mấy? Tại sao lại gọi là tháng Giêng?
 
Tháng Giêng là tháng 1 âm lịch, đây là cách gọi dân gian của ông bà ta từ xa xưa. Câu trả lời cho thắc mắc này cần phải được giải đáp bằng những thông tin mang yếu tố lịch sử từ liên quan tới văn hóa. Theo Giáo sư Kiều Thu Hoạch – Nghiên cứu viên cao cấp của Viện nghiên cứu Văn hóa dân gian thì xét về ngữ âm lịch sử, chữ Giêng bắt nguồn từ chữ Chính trong tiếng Hán.
 
“Người Trung Quốc gọi tháng 1 là Chính Nguyệt. Chữ Chính trong tiếng Hán khi chuyển sang chữ Nôm của ông cha ta thì có vần ‘iêng’. Chữ Nguyệt có nghĩa là trăng nhưng cũng mang nghĩa là ‘Tháng’. Vậy nên cách gọi ‘tháng Giêng’ bắt nguồn từ đó” – GS nói.
GS Hoạch cũng chia sẻ thêm một ví dụ về chữ “Chính” trong tiếng Hán, đó là: “tứ chính chấn” trong tiếng Hán khi sang chữ Nôm đọc là “tứ chiếng”. Vậy nên mới có câu nói “trai tứ chiếng, gái giang hồ”.
 
Theo GS Kiều Thu Hoạch, ngày đầu tiên của tháng Giêng (mồng 1) được gọi là ngày Tết Nguyên đán. Từ “Nguyên” ở đây nghĩa là đứng đầu, là thứ nhất giống như Nguyên thủ Quốc gia, Nguyên soái… Tháng Giêng (tháng 1 âm lịch) là tháng không được nhuận.
 

Tháng Giêng là tháng mà người ta luôn hướng tới những điều tốt lành, kiêng kỵ làm điều xấu, kiêng kỵ những điều không may vì quan niệm rằng những điều không tốt sẽ người ta bị dông cả năm. Một tục lệ rất tốt đẹp của dân tộc ta trong tháng Giêng đó là đi lễ chùa đầu năm cầu mong sức khỏe, bình an, vạn sự như ý, làm ăn phát đạt.
 
Tháng Giêng là tháng của những lễ hội, là thời gian có nhiều lễ hội nhất trong năm, chẳng thế mà có câu “Tháng Giêng là tháng ăn chơi”. Người ta đi thăm, đi chơi, đi thưởng thức hương vị những ngày đầu xuân với tâm trạng hân hoan, phấn khởi để mong những điều tốt đẹp, thuận lợi sẽ đến trong năm mới.
 
                                                           Theo Fb Văn Hoá Việt Nam
                                                         Nguyễn Hoàng Tuân giới thiệu
*
Nguồn:
https://www.facebook.com/share/p/1LmL5JRLm4/?mibextid=wwXIfr

Thứ Sáu, 10 tháng 1, 2025

BÁNH GIẦY, BÁNH DẦY HAY BÁNH DÀY - Theo KiếnThứcThúVị



Bánh giầy (thường viết sai thành: bánh dầy, bánh dày là một loại bánh truyền thống của người Việt Nam nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với tổ tiên và đất trời xứ sở. Bánh thường được làm bằng gạo nếp giã thật mịn, có thể có nhân đậu xanh và sợi dừa với vị ngọt hoặc mặn. Bánh thường được làm vào dịp Tết Nguyên Đán cổ truyền và vào ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch (ngày Giỗ tổ Hùng Vương).
 

Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2025

VÌ SAO THÁNG 12 ÂM LỊCH ĐƯỢC GỌI LÀ THÁNG CHẠP? - Phương Anh



Tháng 12 Âm lịch còn được dân gian gọi là tháng Chạp. Nguồn gốc và ý nghĩa của tên gọi này gắn liền với những đặc điểm cuộc sống, hoạt động của người dân trong thời điểm cuối năm.
 
Tháng Chạp là thời điểm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong văn hóa Việt Nam, tháng có nhiều ngày lễ, nhiều nghi thức thờ cúng quan trọng hướng về tổ tiên và chuẩn bị tiễn đưa năm cũ, chào đón năm mới.
 
Vì sao tháng 12 Âm lịch được gọi là tháng Chạp?

Từ "chạp" có nguồn gốc từ chữ Hán "lạp", và thường được hiểu là gắn liền với khái niệm lễ lạp. Chữ "lạp" trong tiếng Hán có nghĩa là "bữa tiệc cuối năm" hay "lễ hội tạ ơn cuối năm". Đây là thời điểm mà người xưa tổ chức những lễ hội để cảm tạ tổ tiên, thần linh đã bảo vệ và phù hộ họ trong suốt một năm. Vì thế, tháng này còn được gọi là tháng "lạp" - một thời điểm quan trọng để tổng kết, nhìn lại những điều đã trải qua trong năm và chuẩn bị cho một năm mới.
 
Trong tiếng Hán, từ "lạp" có nhiều nghĩa, trong đó có nghĩa “lễ tế chạp”, tức lễ tế thần vào tháng cuối năm âm lịch. Theo lễ nhà Chu (Trung Quốc), lễ tế tất niên gọi là “đại lạp”. Vì thế, tháng cuối năm được gọi là “lạp nguyệt” (tháng có đại lạp).
 
Ngoài ra, chữ “lạp” trong tiếng Hán cũng có nghĩa là thịt cá muối hong khô. Tháng cuối năm là thời gian người ta tích trữ các loại thực phẩm để đối phó với mùa đông rét mướt, và cũng để chuẩn bị cho Tết Nguyên đán. Trong đó, thịt cá là loại thực phẩm quý giá, quan trọng.
 
"Lạp" về sau phái sinh nét nghĩa “lễ cúng tổ tiên, ngày giỗ”. Khi vào tiếng Việt, lạp bị đọc chệch thành “chạp” và trở thành từ đồng nghĩa với “giỗ”. Cho nên, trong tiếng Việt mới có tổ hợp “ngày chạp” tương đương “ngày giỗ” và thường gộp gọn khi nói là “giỗ chạp”.
 

Thứ Sáu, 2 tháng 2, 2024

NGƯỜI MIỀN NAM ĐƯA ÔNG TÁO KHÔNG THẢ CÁ CHÉP SỐNG, KHÔNG THÒNG THÊM “ÔNG CÔNG” - Nguyễn Gia Việt


Táo quân Việt Nam, hình vẽ thế kỷ 19
 
Đưa cái tựa như vậy để nhắc các bạn, tại thấy có vài bạn Nam Kỳ cúng cá chép, rồi kêu Tết Ông Công Ông Táo, bạn làm lộn phong tục là không đặng
Đất lề quê thói. Miền Nam có tập tục của Miền Nam
 
"Hôm nay tháng chạp hăm ba
Tiễn đưa Ông Táo thăng la chầu trời"
 
Tết Ông Táo ngày 23 là cái lễ đầu tiên trong mùa Tết, là tri ơn cái bếp và ngọn lửa ấm áp trong nhà. Ngày 23 đưa thì ngày 30 lại đón, đón Ông Táo cùng đợt với đón ông bà tổ tiên. Cái bếp lò luôn cháy là cái nhà có người đàn bà siêng năng tần tảo, cái nhà ngon lành. Bếp lửa cuối năm sum hợp hạnh phúc
 

Thứ Năm, 1 tháng 2, 2024

TẠI SAO GỌI THÁNG 12 ÂM LỊCH LÀ 'THÁNG CHẠP'? - Trung Hòa



Chúng ta thường gọi tháng 12 Âm lịch là tháng Chạp, và còn dùng các từ như “giỗ Chạp”, "lễ Chạp", "lễ Lạp"... Nguồn gốc của những cái tên này như thế nào, nó mang ý nghĩa gì, và quá trình diễn biến lịch sử cho đến ngày nay ra sao?
 

Thứ Tư, 24 tháng 1, 2024

NGƯỜI MIỀN NAM CHƯNG TRÁI CÂY NGÀY TẾT - Nguyễn Gia Việt




Người Miền Nam mà nói “chưng mâm ngũ quả” nghe kỳ cục
Một bạn hỏi rằng, “ngũ quả” là cách của Miền Bắc trăm phần trăm, vì chữ “quả”. Bạn nói nếu trúng Nam Kỳ phải kêu là “chưng trái cây”
 
1. Người Miền Nam không có “quả”, kêu “trái” hết

Ca dao Nam Kỳ thì có câu:
 
“Đưa em cho tới Đông Hồ
Em trả trái mít, em bù trái thơm”
 
Nam Kỳ kêu “trái”, Bắc Kỳ kêu “quả”. Người Miền Bắc kêu bưởi, đào, táo, cam, quýt... đều là “quả” hết. Chữ QUẢ là chữ Hán Việt, quả là trái cây
 
“Đôi ta ăn một quả cau
Cùng mặc áo vá nhuộm nâu một hàng
Bao giờ cho gạo bén sàng
Cho trăng bén gió, cho nàng bén anh”

Nhưng người Miền Nam lại không kêu quả, mà kêu là “trái”. Chữ “trái” là chữ bổn địa Miền Nam
 
“Nghe vẻ nghe ve, nghe vè trái cây
Dây ở trên mây là trái đậu rồng,
Có vợ có chồng là trái đu đủ,
Chặt ra nhiều mủ là trái mít ướt
Hình tựa gà xước, vốn thiệt trái thơm
Cái đầu chơm bơm, thiệt là bắp nấu
Hình thù xâu xấu, trái cà dái dê
Ngứa mà gãi mê là trái mắt mèo
Khoanh tay lo nghèo là trái bần ổi
Sông sâu chẳng lội là trái mãng cầu”
 
Người Bắc đọc “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” thì Nam Kỳ dạy“Ăn trái nhớ kẻ trồng cây”.
Sơn Nam trong “Cá tính của Miền Nam” viết về “Đào mương lên liếp” của Miệt Vườn. Miệt Vườn là văn minh Miền Nam, là nơi trồng nhiều trái cây
Cây ổi thì cho ra trái ổi và trái bưởi,... Trái cam, trái nho, trái lựu, trái bòn bon, trái dâu, trái măng cụt, trái cà chua, trái dưa leo, trái nhãn... đều là trái hết.

Hãy đọc những câu ca dao của người Nam Kỳ

“Đói lòng ăn trái ổi non
Nhịn cơm nuôi mẹ cho tròn nghĩa xưa”
 
Và:

“Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng nhồi biết tấp vào đâu?”
 
Nam Kỳ là xứ sở của vườn trái cây, của những vựa trái cây, chành trái cây...
Bài vè “Bậu lỡ thời” so sánh con gái quá lứa như trái cây chín rục:
 
“Bậu lỡ thời như trái chín cây
Trái chín cây người ta làm mứt
Bậu lỡ thời như giấy trôi sông
Giấy trôi sông không ai thèm ngó”
 
Miền Nam có quả, nhưng là “quả phụ” tức đàn bà góa chồng còn kêu là “cô phụ”, “sương phụ”. Ngoài ra còn có “nhơn quả”, “công quả” trong nhà Phật
Trong thể thao môn túc cầu hay còn kêu là môn “đá banh”, các cầu thủ giành nhau “trái banh”

Thứ Ba, 4 tháng 10, 2022

TIẾT TRÙNG CỬU – Đỗ Chiêu Đức


                                         Lễ ÔNG BÀ ngày xưa
      
Sau Tết Trung Thu là Tết Trùng Cửu, chữ Tết do chữ Tiết đọc trại ra mà thành. TIẾT là Thời Tiết 時節 chỉ Khí hậu có liên quan đến mùa màng. TIẾT cũng có nghĩa là ngày Lễ Tết trong năm. Một năm có mấy cái Tết lớn. Nguyên Đán là cái Tết lớn nhất mở đầu cho một năm nằm trong tháng Giêng, Thanh Minh là Tết nằm trong tháng 3, Đoan Ngọ là Tết của tháng 5, Tháng 8 thì có Tết Trung Thu và Tháng 9 thì ta có Tết Trùng Cửu.
 

Thứ Tư, 14 tháng 4, 2021

CÚNG GIANG SƠN Ở TANG LỄ - Hoàng Đằng


    
                            Tác giả Hoàng Đằng
 

        CÚNG GIANG SƠN Ở TANG LỄ
                                             Hoàng Đằng

        (Viết về phong tục tập quán của làng tôi)
 

Dân làng Điếu Ngao tôi, ngoài một phần có quy y theo Phật Giáo, đa số thực hành tín ngưỡng dân gian truyền thống.
Khi một người qua đời, trong việc tống táng, có nhiều nghi lễ; quan trọng nhất là LỄ CÚNG GIANG SƠN. Lễ này những cư dân Phật Giáo, ngoài những lễ theo nghi thức của Phật Giáo, cũng cử hành.