BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC
Hiển thị các bài đăng có nhãn Chiết tự chữ Hán. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Chiết tự chữ Hán. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 25 tháng 11, 2024

CÁI THẾ 蓋 世 – Theo Chiết tự chữ Hán



CÁI nghĩa là che trùm. Vung xoong nồi hay nắp dùng để đậy vật gì đều gọi là CÁI    
THẾ nghĩa là đời, là cõi thế gian này.
    
CÁI THẾ là tài năng hơn hẳn mọi người trong cõi thế gian, tức là suốt trong cõi đời không ai địch nổi.
Hai chữ này do điển Hạng Võ có tiếng sức mạnh và võ nghệ cao cường hơn thiên hạ, không ai đương cự nổi, nên sách có câu: 
Lực bạt sơn hề, khí cái thế ,
Nghĩa là 
Sức nhổ núi hề, khí trùm đời.
                                                                                   Chiết tự chữ Hán

Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2024

VÌ SAO CON RỂ VUA LẠI GỌI LÀ "PHÒ MÃ" 駙馬?, BIỀN NGẪU 駢偶



VÌ SAO CON RỂ VUA LẠI GỌI LÀ "PHÒ MÃ"?

     Chồng của công chúa, tức là con rể vua, người ta gọi là Phò mã. Nhiều người giải thích rằng: Phò là giúp, mã là ngựa; Phò mã là người đi bên ngựa vua để giúp đỡ ngài, nghĩa là người rất thân cận với nhà vua
     Thật ra, PHÒ ở đây nghĩa là con ngựa để đóng vào xe. Chữ hán PHÒ viết là "" (fù), còn đọc với âm PHỤ. Ngựa đóng vào xe phụ, đi theo xe chính của vua gọi là PHÒ .
     Còn hai chữ PHÒ MÃ nguyên là một chức quan đời nhà Hán. Chức quan này chuyên về trông coi xe ngựa tùy tòng của vua, được gọi là “Phụ mã đô úy” 駙馬都尉. Từ đời nhà Ngụy, Tấn trở về sau, các đời vua lập ra cái lệ rằng hễ ai lấy công chúa tất được phong vào chức ấy, vì thế nên chàng rể của vua gọi là Phụ mã 駙馬. Ta vẫn thường đọc từ này là Phò mã.
     Lâu dần, người ta chỉ hiểu Phò mã là con rể vua, mà không nhớ danh từ đó nguyên là một chức quan.

Thứ Tư, 7 tháng 8, 2024

CÁC HẠ 閣下, TÚC HẠ 足下, TẠI HẠ 在下 , CÁCH XƯNG HÔ TRONG TRUYỆN KIẾM HIỆP TÀU– Theo Chiết tự chữ Hán




CÁC HẠ 閣下
 
Xưa người ta thường tôn xưng các quan chức hoặc người trên là CÁC HẠ.
Các là lầu các, lầu gác; “các hạ 阁下 có nghĩa đen là ở dưới lầu gác.
 
 Theo sách Nhân Thoại Lục thì thời cổ các quan Tam công có lầu các riêng làm dinh thự, các quan quận huyện cũng có lầu các. Nên sau dùng hai tiếng CÁC HẠ nghĩa là “dưới gác” để tôn xưng các quan.
 
TÚC HẠ
足下
 
“Túc là chân; “túc hạ 足下 có nghĩa đen là ở dưới chân.
Nhìn thấy bậc tôn quí, tôi cũng không dám nhìn vào mặt ngài, tôi chỉ dám nhìn ở dưới chân, có nghĩa là cúi đầu. Quyền lực nằm ở dưới chân, thì nhìn xem bàn chân nằm dưới chân đi về hướng bên nào, đây gọi là “cử túc khinh trọng” (举足轻重, có nghĩa rất quan trọng, nhất cử nhất động đều liên quan đến toàn cục). Bàn chân này của ngài thật quả có sức nặng.
 
Hai chữ TÚC HẠ người Tàu cũng dùng để tôn xưng có giá trị như tiếng NGÀI của ta vậy.
Về lai lịch của từ “túc hạ”, có liên quan đến một câu chuyện đau buồn:

Đời Xuân Thu, vua Tấn Văn Công nước Tấn gặp loạn phải bỏ nước lưu vong, gặp được một hiền sĩ tên là Giới Tử Thôi theo giúp. Về sau, Tấn Văn Công trở về làm vua, phong thưởng cho những người có công nhưng lại quên mất Giới Tử Thôi. Giới Tử Thôi không oán giận gì, về nhà đưa mẹ vào núi ở ẩn. Tấn Văn Công nhớ ra, cho người đi tìm. Vì Giới Tử Thôi không chịu ra lĩnh thưởng, Tấn Văn Công hạ lệnh đốt rừng để ép ông phải ra; cuối cùng, hai mẹ con ông đều chết cháy. Vua thương xót, lập miếu thờ và hạ lệnh kiêng đốt lửa ba ngày, chỉ ăn đồ ăn nguội đã nấu sẵn để tưởng niệm. Tấn Văn Công còn sai người chặt một khúc gỗ nơi cây Tử Thôi ôm đem về cung làm thành đôi guốc. Mỗi khi tưởng nhớ đến Giới Tử Thôi bèn nhìn xuống chân, than rằng: Đau xót thay, túc hạ!
Từ đấy hai tiếng TÚC HẠ dùng làm tiếng tôn xưng người khác. “túc hạ” có nghĩa đen là dưới chân, nhưng hoàn toàn không phải chỉ việc bị người ta giậm ở dưới chân, mà là lấy ý nhìn thấy vật nhớ đến người, cảm niệm tình hữu nghị, biểu đạt sự tôn kính đối với bằng hữu.
 
 TẠI HẠ 在下

“Tại hạ” là từ gốc Hán (nguyên ngữ 在下, có nghĩa đen là ở bên dưới). “Tại hạ” là lời khiêm xưng.
 
Người Trung Quốc xưa thường dùng “khu khu tại hạ”  區區 在下 để biểu thị lời khiêm xưng, “khu khu” cũng có thể thay thế cho “tại hạ”.

Khu khu 區區: tầm thường, nhỏ bé.
 
“Tại hạ” thường dùng nhiều trong Hí khúc Trung Quốc, hiếm gặp trong chính sử, thuộc lối xưng gọi không sách vở cho lắm. Còn có thuyết nói “tại hạ” là lời tự xưng của dân giang hồ. Mà thực tế, đọc truyện kiếm hiệp Tàu, ta thấy các nhân vật trong truyện thường tự xưng là “tại hạ” khi đối thoại.
 
Từ này có xuất xứ từ chuyện thời xưa ở Trung Quốc khi vào bàn tiệc, bậc tôn trưởng ngồi ở bên trên, cho nên người ta tự xưng mình là “tại hạ” (tức kẻ ngồi ở bên dưới) một cách khiêm nhường.
 
                                                                     Theo Chiết tự chữ Hán