BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Tư, 29 tháng 3, 2017

CÁT VÀ ĐÁ - Thơ 4 Sinh Ngữ Việt, Anh, Pháp, Tây Ban Nha của Phước Tuyền Ngô Quang Huynh



              

Bài thơ nầy dựa vào Youtube "Câu chuyện Cát và Đá" được tóm tắt như sau: Hai chàng thanh niên đi trên sa mạc, ban đầu vui vẻ trò truyện, nhưng sau đó, không biết ly do gì sinh ra cãi vã, rồi chàng A tức giận đánh chàng B... Chàng B không nói gì, vội viết ngay trên cát sự cố vừa xảy ra.
Hai chàng vẫn tiếp tục cuộc hành trình... và gặp một hồ nước, chàng B liền xuống khoát nước rửa mặt cho đỡ nóng, chẳng may trượt chân té xuống hồ sâu... Chàng A vội nhảy xuống cứu bạn mình... Sau khi lên bờ, chàng B liền lấy dao khắc trên đá hành động cứu người của bạn mình... Chàng A ngạc nhiên hỏi chàng B lý do nào khi thì viết trên cát lúc lại khắc trên đá...


                                CÁT VÀ ĐÁ
     Thơ 4 Sinh Ngữ  (Việt - Anh - Pháp -Tây Ban Nha)

     1. Cát và Đá. (Việt nam)
     2. Sand and Rock. (English)
     3. Sable et Pierre. (Français)
     4. Arena y Roca. (Español)



     CÁT VÀ ĐÁ

     Bạn đánh tôi rồi, đau đớn thay !
     Tôi ghi trên cát phút giây nầy,
     Để đừng nhớ lại hành vi ấy,
     Thời điểm đau buồn dễ vụt bay..

     Bạn giúp vài điều, tôi cũng ghi,
     Ghi giờ ghi phút bất cứ gì,
     Phen nầy tôi lại khắc trên đá
     Để nó đừng phai, gió cuốn đi..

     Bạn làm mỗi chuyện, tôi chép luôn,
     Ghi cả hân hoan lẫn khổ buồn,
     Hầu nhở nhắc tôi ngày tháng lại,
     Nhưng tùy nơi viết dễ nhìn trông.

     Lâu nay bạn đã giúp tôi nhiều,
     Thoải mái tuổi già lúc quạnh hiu.
     Trao đổi tâm tình như ruột thịt,
     Ân cần thăm hỏi sớm hay chiều.

     Chiều nay tôi định ra biển ngồi,
     Viết hết nỗi lòng trên bãi thôi.
     Để sóng dồn lên hay gió thổi,
     Những gì không đẹp cuốn nhanh trôi.

     Phước Tuyền Ngô Quang Huynh
                   (Feb. 4, 2009)

Thứ Ba, 28 tháng 3, 2017

ĐỌC “TÔI NẰM XUỐNG”, THƠ XUÂN LY BĂNG - Bình thơ của Châu Thạch


               
                           Châu Thạch

          ĐỌC “TÔI NẰM XUỐNG”, THƠ XUÂN LY BĂNG 
         
Một trăm bài thơ nói về sự chết thì một trăm bài thơ bi quan, cho dầu có bài thơ nói đến sự phiêu diêu miền cực lạc, hoà nhập với trăng sao nhưng lại xem thế gian là nơi đầy đau buồn mà mình vừa trút bỏ. Lần đầu tiên tôi đọc một bài thơ diễn tả cõi sống và cõi chết đều tràn lan niềm vui. Nhà thơ Xuân Ly Băng đã siêu thoát ngay tại thế gian nầy trong bài thơ “Tôi nằm Xuống”, một bài thơ nói về sự chết mà không có tiếng chuông báo tử, không có tiếng mõ cầu siêu, không có tiếng khóc thút thít nhưng cả thế gian có ánh sáng, có màu sắc, có âm thanh rộn ràng, tích cực và tươi thắm, khiến cho người nằm xuống như khởi hành một chuyến viễn du đầy hạnh phúc tại nơi đi và đầy nguồn vui tại nơi đến.
 Bài thơ có 13 khổ thơ, mỗi khổ đều có cụm từ “Tôi nằm xuống” ở mỗi câu đầu. Lần lượt 13 câu đầu của mỗi khổ thơ như sau:

     - Tôi nằm xuống, quả đất vẫn quay đều
     - Tôi nằm xuống, hoa vẫn nở bốn mùa
     - Tôi nằm xuống, vẫn tiếng hót chim trời
     - Tôi nằm xuống màu, biển xanh cứ xanh
     - Tôi nằm xuống Hòn bà vẫn hiên ngang
     - Tôi nằm xuống, vẫn cuồn cuộn dòng sông
     - Tôi nằm xuống, lịch sử cứ vận hành
     - Tôi nằm xuống con trẻ cư sinh ra
     - Tôi nằm xuông vẫn chảy dòng sông Dinh
     - Tôi nằm xuống vẫn uốn khúc Li Li
     - Tôi nằm xuống chuông vẫn vọng thánh đường
     - Tôi nằm xuống có ai khóc thương tôi?
     - Tôi nằm xuống cuộc đời vẫn cứ đi

Thứ Tư, 15 tháng 3, 2017

BA BÀI THƠ VUI TẶNG HAI BẠN THƠ CHU VƯƠNG MIỆN VÀ LẠI QUẢNG NAM - Nguyễn Khôi


  

Ba bài thơ vui tặng hai bạn thơ Chu Vương Miện và Lại Quảng Nam
     
     1- XUÂN HÀ NỘI
     "Khách xa gặp lúc mùa xuân chín "  
                              Thơ Hàn Mạc Tử

      Mưa phùn ướt đẫm áo em
      Môi thì nhợt nhạt, tóc mềm rủ thương
      Mịt mờ sương phủ hồ Gươm
      Chừng xa nghe vọng tiếng chuông Tây Hồ
      Nhớ xuân xưa đón Giao thừa
      Ta đi "hái lộc" bên bờ Thiền Quang
      Xuân mưa thả cái dịu dàng
      Bên nhau hơi ấm từ nàng tỏa ra
      Mưa phùn quấn quít hai ta...
                 

     2- PHÊ BÌNH CÁI ĐÈO NGANG
        "Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà"
              Thơ Bà Huyện Thanh Quan

     Một cái Đèo Ngang bao tranh cãi
     Cứ hoài hoài Quốc Quốc với Gia Gia
     Tới đây "đứng" lại hay "ngoảnh" lại ?
     Đâu "chợ" bên sông,"rợ" mấy nhà ?
     Chỉ thấy
     Núi trơ trụi, bãi sim mua cằn cỗi
     Bặt cánh chim, ầm ĩ biển vỗ bờ...
     Anh hay cãi
     Anh ăn sóng / nói gió
     Nổ "phê bình"... phải/ trái gió bay
     Ai yêu nước / ai Việt gian bán nước ?
     Hay gì cuộc Nội Chiến dằng dai ? !
     Ôi,
     đường Nam Tiến gánh gồng đi chiều dọc
     mà "phê bình" lại quay ngoắt
    Đèo Ngang !?!

                 
     3- CẢM THƠ LÊN ĐỈNH ĐÈO NGANG
           "Lòng một tấc son còn nhớ nước
            Tóc hai phần bạc vẫn thương thu"
                                    Thơ Hương Sơn

     Thực chẳng  may sinh ra là Người Việt
     ở Miền Trung nắng gió Trời đày
     Qua sông Gianh lại đến duềnh Bến Hải
     máu Việt tuôn thù hận ngút trời mây...
     Ta ở đây mơ sang Úc / Mỹ
     "Thế giới Tự do" được quyền làm Người
     được làm việc dưới Mặt trời chói lọi
     Lao động hết mình và được xả hơi...
     Ta ở đây dẫm chân tại chỗ
     lên Cao Tầng lại ngó xuống chân
     Ôi con "lộ" như đóng băng: xe cộ đứng
     lên đỉnh Đèo Ngang
     ca khúc "4000 năm
     Ta lại là Ta"
     chợt nghe tiếng Gia Gia / Quốc Quốc
     vạch Trời lên
     GÀO
     một tiếng
    Thầm !  (1)

     Hà Nội 15/3/2017
     NGUYỄN KHÔI

    ----

    (1) Đáo địa nhất vô thanh.

Thứ Ba, 14 tháng 3, 2017

TRAO ĐỔI VỚI ÔNG CHU VƯƠNG MIỆN - Lại Quảng Nam


                
                  Nhà biên khảo Lại Quảng Nam


Kính gởi  ông Chu Vương Miện
1
Trưa nay nằm đọc lại email trên laptop, tôi kinh ngạc về lời trong thư của ông. Phàm khi muốn tranh luận với ai về một đề tài gì thì nguyên tắc chung là chỉ trích xuất các từ trong văn bản đó mà thôi. Vậy mà Ông đã sai ngay từ đầu. Trước khi tôi phản hồi với ông tôi xin nhắc lại hai điều mà tôi cảm  nhận về ông.

THƯ GỬI ANH LẠI QUẢNG NAM - Phiếm đàm của Chu Vương Miện


             
                   Nhà thơ Chu Vương Miện


              THƯ GỬI ANH LẠI QUẢNG NAM
                                     

Kính Anh!

Rất hân hạnh được đọc bài viết của anh do anh Nguyễn Khôi chuyển lại, không có đầu đề, chẳng qua là nối điêu "tiếp theo bài viết của nhà thơ Quách Tấn"
Qua nội dung của bài viết của anh, chúng tôi ghi nhận được vài điều xin ghi lại để tiện trao đổi :
1- An Chi là " học giả đừờng phố ".
2- Tiến sĩ thời nhà Lê Trần Danh Án là Việt Gian.
3- Xỉ vả không thương tiếc  Ban Giáo Sư Tiến Sĩ đã biên tập và chú giải một cách nhếch nhác về bài thơ này trong Ngữ Văn lớp Bảy (7) mấy mươi năm qua.
4- Các  giáo sư ngày trước (có nghĩa là trước 1975) đã không toàn tâm toàn ý... để hầu như 99% đều đọc là "Rợ mấy nhà".
5- Ngoài ra các lớp đàn anh, họ còn dựa vào Phép Ngụy Biện "Van vái tứ phương".
Đọc xong bài viết của anh Lại Quảng Nam, tôi Chu Vương Miện rất cảm động về tấm lòng yêu nước và tha thiết với văn học Việt Nam của anh, nhưng hoàn cảnh đất nước đổi thay, sách báo miền Nam bị tịch thu và đốt hết, tất cả các tác phẩm của các tác giả miền Nam "in thành sách" đều bị liệt kê vào loại sách Phản Động "cấm lưu trữ và lưu hành". Tôi (CVM) vần C, đứng gần đầu sổ, và trên 200 văn nghệ sĩ bị đi tù, có người đã chết như thi sĩ Vũ Hoàng Chương, nhà văn Nguyễn Mạnh Côn...
Nhưng bài viết của anh quá ngắn và lại "không trích dẫn "Nhà văn An Chi là Nhà Văn Đường Phố". Nhà văn đường phố là loại nhà văn gì ? Tiến sĩ Trần Danh Án là Việt Gian ? Việt Gian ở chỗ nào ? Việt Gian cho ai ?
Rồi đến các vị soạn sách Giáo Khoa, sau 1954 đến 1975 thì Nam hay Bắc cũng giống nhau, đó là thời kỳ loạn lạc, trường học, lớp học cũng lôi thôi, có nhiều miền trong "vùng giải phóng" phải học ban đêm, dưới ánh đèn dầu.
Chu Vương Miện di cư vào Nam, giữa năm 1954, nhưng đến tháng 12 năm 1955 trường Trung Học Trần Quốc Tuấn Quảng Ngãi mới khai giảng, lý do là trường đang xây cất bị bão làm sập, thầy hiệu trưởng là thầy Nguyễn Văn Nghi, chỉ là giám thị trường Trung Học Võ Tánh Nha Trang, chỉ có bằng Trung học rồi sửa thành bằng Tú Tài, sau một năm nội vụ bị phát giác thì bị cách chức Hiệu Trưởng nhưng lại thăng làm Quận Trưởng quận Tư Nghĩa, giáo sư Hà Như Hy (em ruột của giáo sư Hà Như Chi; anh ruột của bác sĩ Hà Thúc Như Hỷ) về làm hiệu trưởng, lúc đó trường chỉ có duy nhất giáo sư Bùi Đức Chu người Quảng Ngãi, giáo sư Bảo Phốc (người Huế)  và giáo sư Chu Duy Kham (cháu của giáo sư hiệu trưởng trường Nguyễn Hoàng tỉnh Quảng Trị là giáo sư Chu Duy Khánh) là có bằng Tú tài 2, phần còn lại toàn là Tú Tài 1 (tương đương  lớp 11 bây giờ) và các giáo viên tiểu học. mãi đến năm 1958 mới có các giáo sư tốt nghiệp Sư Phạm cấp tốc một năm về giảng dạy cho lớp Đệ Tam (đệ nhị cấp).
Xin bạn Lại Quảng Nam mở lòng từ tâm, mà chấp nhận  đất nước của chúng ta trong hoàn cảnh như thế, loạn lạc gần trọn một thế kỷ! Có chuyện cần làm ngay mà cũng có chuyện làm từ từ, chuyện người trước chưa làm xong thì để cho người đời nay làm. Trước làm sai thì sau sẽ số gắng làm cho đúng.
Theo cách bạn viết thì Học Giả An Chi "câm mồm không dám nói, không dám phản biện với bạn”, vì ngu quá ? Ban soạn sách giáo khoa toàn Tiến Sĩ cũng im luôn.
Suy nghĩ như vậy bạn tự trở thành một thứ Đông Phương Bất Bại, trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, và Độc Cô Cầu Bại trong Thần Điêu Đại Hiệp, không ai dám lên tiếng với bạn, vì họ ngu dốt qúa,hèn hạ quá! Còn những người đã qua đời như tiến sĩ Trần Danh Án và những vị soạn sách giáo khoa mà bạn chê cũng đành ngậm cười nơi chín suối!
Ý kiến của người viết bài này, rất thô lậu quê mùa, bài bạn viết hay những bài bạn đã viết, không ai dám lên tiếng ! Lý do giản đơn như sau :"là trong bài viết về Văn Học, Văn Hóa của bạn có quá nhiều Từ Ngữ "Chợ Búa Hàng Tôm, Hàng Cá & Đường Phố Bến Xe; Vỉa Hè, nên đa số dân cầm bút văn chương "trói gà không chặt" không hiểu là bạn nói cái gì ? bạn viết cái gì ? và bạn chửi cái gì ? và cũng hoàn toàn không đủ chữ nghĩa Hè Phố để bồi đáp bạn, " trao đổi với bạn ", đành chịu thua bạn.
Bạn là dân Quảng Nam, con dân của một miền đất có truyền thống cách mạng, là một nơi Địa Linh Nhân Kiệt,  nhiều Công Thần Danh Tướng, nhiều nhà Nho Lỗi lạc,  nhiều phong trào Văn Thân, Cần Vương, Duy Tân, bạn là một người có ăn học và  có học vị "Cao Học", lại là một người cầm bút nổi danh, chuyển dịch thơ Đường, các bài biên khảo giá trị. Bạn phải giữ tư cách cho bạn, Văn Chương; Văn Học đâu có phải là chỗ đầu đường hay bến xe  để cho bọn Chí Phèo Tung Hoành.
Viết đến đây có lẽ cũng cạn lời, bạn coi kẻ viết những dòng chữ tâm huyết này là thù hay bạn cũng tốt! Dù sao đi nữa thì giữa tôi và bạn cũng có môt thời coi nhau như bằng hữu.
                                                                                         Kính
                                                                               Chu Vương Miện

Thứ Hai, 13 tháng 3, 2017

AI LÀ TÁC GIẢ KỊCH THƠ BÓNG GIAI NHÂN - Hồi ký của Hoàng Cầm

ĐÍNH CHÍNH NHỮNG NHẦM LẪN TRONG VĂN HỌC
                                 Gửi Yến Lan, một nỗi nhớ, một niềm thương
                                                              Ký tên Hoàng Cầm  

              
                            Nhà thơ Hoàng Cầm


            AI LÀ TÁC GIẢ KỊCH THƠ BÓNG GIAI NHÂN  
                                                                         Hoàng Cầm

  1941 tôi đã chính thức bước vào cái “nghiệp của văn chương” được vài năm. Cuối năm ấy tôi được xem vở kịch thơ đầu tiên công diễn trên sân khấu nhà hát lớn Hà Nội, do nhà đạo diễn Chu Ngọc dàn dựng. Việc được xem một vở kịch thơ tề chỉnh trên sân khấu có chuẩn mực lần ấy với tôi là một bước ngoặc quyết định trong công việc sáng tác kịch thơ của tôi

   Vở kịch thơ ấy có tên là “Bóng giai nhân”. Trong chương trình ghi là hai tác giả Nguyễn Bính và Yến Lan. Với Nguyễn Bính tôi đã quen. Đối với các bậc đàn anh nổi tiếng, tôi coi như cây cao bóng cả. Tôi chưa gặp Yến Lan bao giờ, chỉ biết anh là một thi sĩ đáng kính nể với bài Bến My Lăng, mà anh đang sánh vai đồng hành với đại thụ như Hàn Mặc Tử, Bích Khê…nhóm thơ Bình Định nổi tiếng trong phong trào thơ mới


Thứ Bảy, 11 tháng 3, 2017

NGỒI RU VÕNG TÌNH - Bình thơ của Nguyễn Hùng Dũng




    NGỒI RU VÕNG TÌNH 

    Thôi ta phiền muộn lắm rồi
    Đừng lay ta dậy mộng đầu xa xôi
    Đừng môi đừng mắt gọi mời
    Vòng tay ngày đó rã rời nỗi đau

    Bèo mây gặp gỡ đời nhau
    Gió lên con nước trôi mau cuối trời
    Tình vui phút chốc tình rờI
    Ngỡ ngàng bao nỗi cuộc cờ thế gian

   Ta về xếp lại ngổn ngang
   Tạ ơn ai dẫu còn mang mối sầu
   Ta ngồi lặng giữa đêm thâu
   Trời không tháng bảy mưa ngâu sụt sùi

   Tạ ơn ai lần nữa thôi
   Thiên thu giọt lệ đắng môi giả từ
   Bóng ta lẫn bóng sương mù
   Cánh hoa nở muộn ngồi ru võng tình…

                                               Lara Ngo

Thứ Hai, 6 tháng 3, 2017

HỎI ANH - Thơ Nguyễn Ngọc Thìn


     

Người bạn vong niên của La Thụy, anh Nguyễn Ngọc Thìn (1940 - 1992) lãng du vào miền miên viễn đã 25 năm rồi. Tưởng nhớ đến anh, xin đăng bài thơ HỎI ANH được anh viết trong ngày Quốc Tế Phụ Nữ 8/3 năm 1988
      
       HỎI ANH

       Con ta nay đã lớn rồi 
       Cửa nhà cũng chẳng thua người bao nhiêu 
       Chừ đây em hỏi đôi điều
       Yêu con, yêu vợ hay yêu bạn bè

       Rượu chè còn nghĩa phu thê
       Có nên đi sớm về khuya không mình ?
       Bao nhiêu nắng của bình minh
       Bấy nhiêu hạnh phúc cuộc tình đôi ta 

       Anh ơi còn thấy đậm đà
       Còn vui như buổi pháo hoa em về
       Bây giờ nhiều kẻ ngủ mê
       Trong bia rượu với bạn bè hư thân 

       Vì con, em mới ân cần 
       Vì anh, em mới nghĩ gần nghĩ xa
       Nói đi anh… chuyện cửa nhà
       Tương lai : con, vợ, mẹ, cha đang chờ
       Hỏi anh, anh trả lời sao ?

                                   Nguyễn Ngọc Thìn
                                               1988

Thứ Sáu, 3 tháng 3, 2017

TÁM MƯƠI DƯ - Thơ Hoàng Hương Trang


Tên thật: Hoàng Thị Diệm Phương
Năm Sinh: 1938
Quê quán: Vân Thê - Hương Thuỷ - Thừa Thiên Huế
Tốt nghiệp cao đẳng Mỹ Thuật 1960, Sư Phạm Mỹ Thuật 1961
Nghiên cứu Mỹ Thuật Á châu (Tokyo1963)
Giải thưởng:
- Nam Phương Hoàng Hậu
- Giải hội hoạ vẽ biểu mẫu nhà máy xi măng Long Thọ Huế 1958
- Giải văn học vì trẻ thơ do hội nhs văn việt Nam tạp chí vì trẻ thơ và Uniceff tổ chức 2000 - 2001 (Hà Nội)
Cựu giáo viên các trường trung học, cựu giáo sư trường Đại học Mỹ Thuật Sài Gòn TP. HCM
Tác phẩm: 6 tập thơ từ 1964 - 2002
In chung trên 30 tuyển tập thơ văn trong và ngoài nước
Có tên trong thi nhân Việt Nam thế hệ 1954 - 1973


     TÁM MƯƠI DƯ
       (Quý tặng La Thụy)

     Ngó lên, ta thua người trăm tuổi
     Nhìn xuống, tớ hơn lũ bảy mươi.
     Mắt không mờ
     Tai không nghễnh
     Răng không rụng
     Lưng không còm
     Tự hào “tứ quý” trời cho.
     Thơ hơn chục cuốn, vạn bài
     Văn ngoài dăm quyển, ngàn trang
     Họa sáu mươi niên, dư vài trăm bức
     Nhạc điểm xuyết mấy khúc ca.
     Ngâm nga gần bảy chục năm, Tao Đàn nổi tiếng
     Hát hò chưa ca sĩ, bạn bè vẫn vỗ tay khen.
     Ghét bonsai, cây thiếu đất
     Chê chim cá, cảnh chậu lồng
     Không chơi non bộ, trò núi giả
     Chỉ thích rừng sâu biển cả
     Chỉ ngắm cá nước chim trời.
     Đoạt bảy giải thưởng suốt đời, gồm đủ Thơ Văn Nhạc Họa
     Hỏi ai kẻ bằng ta?
     Sống tám chục năm qua, hiếm khi bệnh tật.
     Tình một mối hẹn hò, trải dài ba kiếp tái sinh
     Nhà một mái đơn sơ, đi về tự do tự tại.
     Tiền không tỉ phú, nhưng “hồ hết lại có, hồ vơi lại đầy”
     Túi chưa bao giờ rỗng đáy
     Đời chẳng lên xe xuống ngựa
     Mà chân đi khắp mọi miền, Bắc Trung Nam đều bước tới.
     Tuổi tám mươi dư, không còn gì hơn ở kiếp này
     Kỳ vọng Nợ Duyên kiếp sau tròn mộng.
     Bạn bè khắp năm châu bốn biển, tính đến vạn kẻ thân quen
     Học trò trong nước ngoài nước, đếm quá ngàn, tình thân chí thiết.
     Giao lưu cuối đất cùng trời, từ Âu sang Á…
     Cũ mới mọi thời
     Hẹn ước chỉ một người, ngự trong tim vĩnh viễn.
     Đầu xuân Đinh Dậu, nghe gà gáy, gẫm lại đời mình
     Làm thơ tặng mình, mình đọc cười chơi
     Xuân sang nâng chén soi gương
     Tóc bay bạc trắng, ta rót ta say túy lúy.
     Chắp tay cám ơn Trời Phật
     Cho ta dư tuổi tám mươi
     Cúi đầu tạ ơn Tiên Tổ
     Đã ban tài nghệ vẹn toàn ngoài mơ ước.
     Kiếp này tạm mãn nguyện rồi
     Xin hẹn kiếp sau sẽ hơn thế nữa

    Đầu xuân Đinh Dậu, Sài Gòn 2017
    Mừng tuổi Đinh Sửu, 81 mùa xuân

    HOÀNG HƯƠNG TRANG
    ĐT: 0164 7588407

Thứ Tư, 1 tháng 3, 2017

QUAN HOÀI - Xuân Ly Băng, La Thụy


                

Ôi! Đêm Bê - lem rạng ngời tinh tú, các tầng trời vang vọng tiếng hoan ca. Nhưng hỡi ôi! Sao chiều Núi Sọ lại buồn đau chất ngất? Mặt đất thảm sầu run rẩy, như sụp nứt theo hố huyệt bi thương. Chúa ơi! Lòng con lịm tím “quan hoài


         
                                 Thơ: Xuân Ly Băng.
                                 Giọng ngâm: La Thụy.


                                  QUAN HOÀI

                   Đây Bê - lem nhắn về chiều Núi Sọ
                   Vươn tay dài riết chặt lấy tình thương…
                   Tình một trời bát ngát tựa thiên hương,
                   Thu gọn lại? đành thở dài bất lực!

                   Bê - lem sầu… trăng sao ngồi thổn thức
                   Ước một giờ vạn kỷ có như không!
                   Khi sương đêm run rẩy trên cánh đồng,
                   Còn nghe thấy cung buồn hoa cỏ dại…

                   Sầu Núi Sọ từ bao năm tê tái,
                   Vỡ ngọc rồi luyến tiếc bạc đầu non!
                   Ai qua đồi vào những buổi hoàng hôn
                   Nghe tiếng khóc rên từng hòn đá nhỏ!

                   Bê - lem ơi! Tím chiều lên Núi  Sọ
                   Hỏi ân tình còn chút nữa dư hương
                   Đá lạnh lùng không đáp nữa ca thương,
                   Bên sọ trắng từng chồng cao ngất nghểu!

                   Và Núi Sọ bao đêm trường hắt héo
                   Cổ quan hoài nghiêng xuống hỏi Bê - lem
                   Sáng tìm trời còn giữ nữa không em
                   Sao khuya ấy có khi nào xuất hiện?

                   Vòng trời đất đã hơn một lần biến chuyển
                   Nhạc ân tình trên tháp trắng reo cao…
                   Đêm lẫn chiều không với được vì sao
                   Đang thiêu đốt đến tận cùng thiên địa

                                                XUÂN LY BĂNG

THƠ TÌNH BÊN SÔNG: NỖI ĐAU XÉ LÒNG - La Thụy

    Hồ Quang - bạn TRUNG HỌC BÌNH TUY - đã thành người thiên cổ. Sinh thời, vào lúc cuối đời, Quang sống lang thang, cơ cực. Anh gửi tâm trạng u uất vào sáng tác thơ văn và gửi đăng trên tạp chí Văn Nghệ Bình Thuận, báo Bình Thuận với bút danh Hoài Quang. Nhân mùa Phục Sinh, La Thụy đăng lại bài mình viết về tập THƠ TÌNH BÊN SÔNG của Hoài Quang, như thắp lên nén nhang lòng tưởng niệm người bạn giang hồ hiện giờ chắc đang lãng du vào vùng trời miên viễn


              


         THƠ TÌNH BÊN SÔNG –  NỖI ĐAU XÉ LÒNG 

                    “Quân tại Tương giang đầu 

                     Thiếp tại Tương giang vĩ
                     Tương tư bất tương kiến
                     Đồng ẩm Tương giang thủy”    
                                                         
     Những câu thơ cổ chợt hiện về trong tôi – như tiếng thở dài não nuột của đôi lứa yêu nhau da diết, mà đành cách trở đôi dòng, người đầu sông kẻ cuối bãi, ngậm ngùi trông nhau luyến nhớ - khi đọc THƠ TÌNH BÊN SÔNG của Hoài Quang .
     Người xưa, dù vời vợi ngàn trùng cách biệt vẫn  được diễm phúc “đôi bêncùng đẫm lệ, hướng mặt gởi tấm lòng son sắt về nhau. Người nay, bi thiết hơn, con sông Dinh, đôi bờ hẹp nhỏ, cách nhau chỉ một chuyến đò ngang, chỉ bằng nửa tầm tay với,  thế mà "riêng ai" lại quặn lòng, đau đáu dõi trông. Ôi ! "Cái gần gụi tấc gang ấy là cái gần gụi muôn đời không hội điểm của hai con đường sắt" (Mai Thảo). Biết làm sao, khi :

                Ta đi em ở lỡ làng
                Mới hay khuya đã sang ngang cùng đò