BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Năm, 31 tháng 3, 2022

MƯỜI NĂM VỀ LẠI THÀNH PHỐ NỌ – Thơ Nguyên Lạc


   
                 Nhà thơ Nguyên Lạc

 
MƯỜI NĂM VỀ LẠI THÀNH PHỐ NỌ
 
Mười năm về lại thành phố nọ
Tìm lại tôi thời xuân đã qua
Con đường đưa đón yêu thương cũ
Hụt hẫng từng viên sỏi đá xưa
 
Vườn xưa đóa hoa nhan sắc nọ
Hương hoa ngày đó ở phương nao?
Tôi về tìm lại tôi thương nhớ
Dâu bể đau thương ngút nỗi sầu
 
Tôi về tìm lại tôi yêu dấu
Phố của ai đâu phố tôi xưa!
Ngơ ngác lạc loài nơi phố lạ
Nghe hồn tê tái nỗi phôi pha!
 
Mười năm về lại tìm ký ức
Chốn cũ người xưa mắt lệ nhòa
Kỷ niệm trào dâng lòng rưng rức
Thôi nhé một thời ta thiết tha!
 
                            Nguyên Lạc
 

THÂN MỆNH VÀ NHỮNG BĂN KHOĂN – Đặng Xuân Xuyến

(Tổng hợp những comments trao đổi trên facebook: 2012 – 2013)
 


Để tiện cho việc tự học xem Tử Vi của bạn đọc, người viết tổng hợp lại những giải đáp thắc mắc của bạn đọc qua nick facebook Đặng Xuân Xuyến (Hạ Vinh Thi) với tiêu đề THÂN MỆNH VÀ NHỮNG BĂN KHOĂN theo dạng Hỏi - Trả lời.
 
Hy vọng, khi cầm lá số trên tay, đối chiếu với bài viết, bạn đọc có thể tự luận giải cho lá số của mình với những nét phác thảo cơ bản...
 

NHỚ CÁI GIẾNG KHÔ NƯỚC, NHỚ XÓM NHÀ ANH NGUYỄN LAM – Đinh Hoa Lư


Anh Nguyễn Lam
(CHS NH 1955-1962)

Cái giếng trước con kiệt vô nhà ôông Đội Lạp tiếng thì có giếng đó nhưng cứ cạn queo, nước chẳng bao giờ có. Chỉ mừng cho dân trong xóm khi không có nước thì đi móc gàu người khác bỏ lại cũng khỏi lỗ công đi vét nước.
 
Tui nhắc cái giếng để nhớ nhà anh Báu con trai mệ Báu chuyên đi gánh nước cho mẹ già. Trong xóm không ai gánh giỏi hơn anh Báu. Nước phải về tận thôn Hạnh Hoa mới có. Lại là nước uống mới quý làm sao. Cứ thấy anh sáng sáng chiều chiều là gánh nước về cho mạ. Hai cái thùng dầu hỏa cũ, vuông, mấy lá chuối thả trên mặt thùng cho nước khỏi chao, anh gánh một mạch từ cái giếng nước uống đầu thôn Hạnh hoa về tận xóm nhà ôông Đội Lạp. Khoảng đường khá xa nhưng hai chân anh chạy nhịp nhàng dẻo queo, thấy mà thèm cái sức và đôi vai chịu khó của anh Báu và nhất là anh quả là NGƯỜI CON CHÍ HIẾU
 
Cái giếng này ngó qua là nhà Anh Nguyễn Lam. Nhà anh Lam sát cạnh Khuôn Hội Đệ Tứ, ngó ra đường Lê văn Duyệt. Thằng Lợi em trai út của anh Lam học với tui lên tận lớp Đệ Tứ.
Tui hay tới nhà anh Lam để mua bánh ướt. Lúc này tui là đứa con nít, mạ cho hai đồng là tới nhà anh để mua. Chị Nghệ em gái anh Lam đổ bánh ướt nhà dưới. Ngồi chổm hổm bên chị Nghệ chờ chị cuốn cho đủ HAI tì bánh ướt gói trong lá chuối, cộng thêm chút nước mắm nấu trong cái chén mang theo. Một thời chưa có kỹ nghệ nylon như sau này. Lá chuối làm chuẩn; mọi thứ đều gói lá chuối.
 
Anh Lam thời nay đã đi làm; anh là anh trưởng trong nhà. Anh còn có hai đứa em trai là anh Thảnh và em trai út là thằng Lợi, bạn tui. Tội nghiệp thằng Lợi chỉ học xong lớp đệ tứ, hắn đi lính và sau đó mất sớm. Tui biệt tin thằng Lợi trước năm 1972 sau hỏi mới biết...
 

PHẠM ĐÌNH CHƯƠNG, NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG ÂM NHẠC - Nguyễn Mạnh Trinh


Nhạc sĩ Phạm Đình Chương

Có nhiều người cho rằng thơ phổ nhạc không còn chất thơ nguyên thủy nữa bởi vì nhạc sẽ làm giảm đi cái nét thâm trầm sâu sắc mà thơ phải chuyên chở. Một người chủ trương như vậy là nhà văn Tạ Tỵ. Khi được hỏi về những bài thơ phổ nhạc mà có sự ví von là nhạc chắp cánh cho thơ trong đó có bài “Thương về 5 cửa ô xưa” của ông.
Nhưng có nhiều người thì nghĩ khác. Như nhạc sĩ Anh Bằng, người đã phổ hàng trăm bài thơ thì cho rằng thơ phổ nhạc là một nét đặc thù của văn nghệ Việt Nam. Trong khi nói chuyện với tôi ông đã tỏ ra rất trân trọng những bài thơ phổ nhạc của nhạc sĩ Phạm Đình Chương và cho rằng đó là một nhạc sĩ phổ thơ hay nhất của âm nhạc Việt Nam.

EM, PASTERNAK VÀ THƠ - Lê Mai Lĩnh

Xin giới thiệu một bài thơ hay của nhà thơ Lê Mai Lĩnh (Sương Biên Thùy).

   


EM, PASTERNAK VÀ THƠ
 
Nếu được sống một thời
Như một thời, Pasternak đã sống
Anh cũng có cho mình, một Zhivago, Doctor
Nếu được/ bị / sống một thời
Như một thời, Pasternak dũng cảm tung hoành ngòi bút
Anh cũng có cho mình, một trời thơ Tình Yêu
Nếu được / bị sống một thời
Nhưng đã không có một thời
Nên anh đã tay không, nếu như em không đến
Nhưng em đã đến
Hiếm hoi
Muộn màng
Giũa đời ta, thời bóng xế
 
Em đến, làm đảo điên đời ta
Cái đã mất, lấy lại được rồi
Cái không còn, hiện hồn trở lại
Cái đã chết, đòi sống lại, phục sinh
Cái dưới đất, chui đầu mà dậy
Cái trên trời, không dưng rớt xuống
Cái ngoài biển, trôi dạt vào bờ
Cái ngủ yên, lồm cồm bò dậy
Cái điên khùng, trở lại cái tỉnh
Cái bất thường, trở lại ngon lành
Nên ta gọi, là em Lara của ta
Cũng phải
Anh đã là Pasternak, của, do, bởi, tại, vì em
 
Cảm ơn em
Người tình chín đỏ
Cuối đời
Vô song.
 
Sáng nay chép lại bài thơ
Trong quán cà phê đường Lam Sơn
Giữa vị đắng và khói thuốc
Nơi anh đưa em tới
Căn nhà số 13
Để mai sau lỡ có thế nào
Em đổ tại anh chọn số 13 xui xẻo.
 
Đêm qua lại nữa, một đêm trắng mắt
Em, Pasternak và Thơ
Chập chờn trong anh, giữa cơn mộng tỉnh
Rượu, không uống mà say
Tình, lỡ vương phải chịu
Em hiểu không,
Lòng anh.
 
                                           Lê Mai Lĩnh

Thứ Tư, 30 tháng 3, 2022

VỀ LÀNG – Truyện ngắn của Nguyễn Đặng Mừng


Nhà văn Nguyễn Đặng Mừng
 

Những người thắt đáy lưng ong
Vừa khéo chiều chồng lại khéo nuôi con
                                               (Tục ngữ)
 
Hàng năm cứ vào tháng chín âm lịch, bà con ở xa thường về làng chạp mả. Nhiều khi ở cả tháng trời cũng chưa chạp xong mộ bên nội bên ngoại. Làng có tám họ tộc, mấy chục đời gả qua lấy lại gần như bà con cả. Nhớ cho ra bà con thế nào, nội ngoại ra sao, ai anh ai chị, ai chú ai bác, ai o ai dì là một chuyện không dễ. Có những trường hợp tôi vừa là ông vừa là cháu của một người nào đó, nếu theo giai bậc của cách gọi bên này và ngược lại bên kia. Phải nhớ để khỏi bị trách là điều thiệt khó đối với những người ở xa về. Từ ngày xa quê tôi thường ghi chép để khỏi bị các chú bác cô dì trách: “Ơn say chưa” (1)
 

CÓ NHỮNG NGÀY - Thơ Đỗ Tư Nghĩa


   
                   Nhà thơ Đỗ Tư Nghĩa 


CÓ NHỮNG NGÀY
 
Có những ngày hồn tôi lênh đênh
như lá khô
chẳng biết chọn nơi nào đậu xuống.
Có những ngày
tôi như con chuột nhỏ
chui rúc nơi những cống rãnh của cuộc đời
dù trên đầu tôi vẫn có trăng sao
dù quanh tôi
vẫn có lá cây xanh
và trên bàn tiệc cuộc đời
mỗi ngày
vẫn đổ tràn rượu đỏ.
 
Có những ngày
hồn tôi như con gà đói thóc
chạy kiếm những hạt vàng
nhưng mùa gặt đã xa
chẳng còn hạt nào vương vãi!
 
Có những ngày
Tôi kinh ngạc
Ôi, cuộc đời đó ư?
Những chuỗi dài vô lý
những ràng buộc vô danh
những muộn phiền vô nghĩa...
 
Xin đừng ai dạy tôi
phải biết mỉm cười
khi bão dông kéo đến.
 
Tôi đã cười to
nhưng tiếng cười có nghĩa gì
giữa vũ trụ bao la
giữa cát khô
giữa hoang vu
ngàn sa mạc!
 
                         Đỗ Tư Nghĩa
                         Đà Lạt, 1983

RƯỢU ĐÀO RÓT ĐÃI CỐ NHÂN – Thơ Hạ Thái


   
                                  Nhà thơ Hạ Thái 


RƯỢU ĐÀO RÓT ĐÃI CỐ NHÂN
(Y đề thập thủ liên ngâm của Sài Môn Chủ Nhân)
 
1-
Khó lòng tìm lại cao nhân
Văn thơ ai sánh Chu Thần được đây !
 
Hạ vần thơ xuống giấy hoa tiên
Thoáng bóng ngân hà sóng dạt nghiêng
Say chén bồ đào quên mất lối
Vạch cành nguyệt quế thấy còn tên
Người đi bận bịu nâng tay nải
Kẻ đến khoan thai đốt ngọn đèn
Giữa cõi thinh không nhiều huyễn hoặc
Hồn du lạnh buốt khúc hư huyền!
 
2 -
Vô thần xàm xỡ tục tiên
Ngón bài ba lá tráo miền đỏ xanh
 
Mộng giấc thừa lương khó đạt thành
Huyền mơ âm hưởng của vô thanh
Lâng lâng nhịp trúc chiều ly biệt
Trầm bỗng hồi chuông ý tử sinh
Kém chọn kép đào tuồng kịch cởm
Dở tìm vai diễn kém thông minh
Bày thêm hòm kiếng làm bùa ngãi
Giữa chốn ba quân quá hợm mình!
 
3 -
Thôi buồn chi cõi phù sinh
Mượn đường chắp nối lộ trình tiếp chân
 
Chìm nổi nhiều phen giữa cõi trần
Bởi mang nghiệp dĩ kiếp ca ngâm
Người còn biền biền đời quy ẩn
Kẻ vẫn miệt mài chí giáng lâm
Sông núi giờ đây buồn nghịch cảnh
Bến thuyền thuở đó khó tòng tâm
Loay hoay tìm đọc từng trang sử
Nét chữ người xưa giáng bút thần.
 
4 -
Gởi vài lời tặng bàng nhân
May ra góp nhặt gom phần dùm đây!
 
Chiều rơi núi dựng tỏa tàng mây
Ly cạn rồi ly lại rót đầy
Đêm xuống lạnh lùng cơn gió thoảng
Trời còn bàng bạc khóm mây bay
Cụng ly tương ngộ khơi niềm nhớ
Ngâm khúc hồ trường thấm cuộc say
Tiếc tưởng thương hoài vầng nguyệt bạc
Dễ đâu vơi được nhớ nhung này!

5 -
Ngày qua rồi lại qua ngày
Rừng hoang vu sẽ thành xây vượt từng
 
Trời hỡi thời gian chẳng thể ngừng
Tóc thề người cắt chấm ngang lưng
Quan san mây dạt thêm niềm nhớ
Biển đảo sóng vây chặn nỗi mừng
Bốn tốt láo lường thành bốn bại
Di vàng đanh đá hóa di hưng
Non sông gấm vóc còn chi nữa
Dâng ải vừa xong tiếp hiến rừng!
 

ANH HÙNG CA – Thơ Văn Cao

Bài này đăng trên “Tiểu thuyết thứ Bảy”, chưa thấy ai nhắc đến. Nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên Ân đưa lên facebook.

 


 ANH HÙNG CA
       
 Mắt sáng ngời lên như ánh dương,
 Rượu hồ, da đỏ, khách ly hương.
 Thiên bôi đối ẩm nhìn quan ải:
 Quằn quại cờ bay trong gió sương.
 
 Lắng nghe dòng máu ta đang sôi!
 Say nữa! Say lên tráng sĩ ôi!
 Lòng thép vang rền: xương gẫy rạn,
 Xa trường: than ôi, là tơi bời!
 
 Chuyện thê nhi: bẻ trâm vàng đi!
 Khăn lụa người cho lau máu đi!
 Ảnh tặng giấu vào trong ngực áo!
 Trở về? – Không! Chỉ có ra đi!
 
 Quan san xa cách trùng dương hận,
 Cười ré lên nào! Rú nữa lên!
 Da đỏ trời ơi là máu, máu!
 – Bên ngoài quan ải lính thay phiên.
 
 Đập vỡ cho ta hồ rượu này!
 Chén thù uống cạn nhớ đêm nay:
 Trăng vàng vỡ nửa, gương tình lỗi
 Khuê nữ đâu say hơn rượu đầy?
 
 Anh em! Anh em! Hãy cố say!
 Mai gặp nhau chăng hay gặp thây?
 Da cổ ví dầy đầu đỡ rụng,
 Thây anh rồi lấp với thây này.
 
 Sót đời lính thú không tên tuổi
 Cả một nghìn thây đổi lấy thành,
 Nói đến cuộc đời còn chẳng tiếc,
 Tiếc gì nước mắt đón đưa, anh?
 
                                    Văn Cao
 
Nguồn:
Tiểu thuyết thứ bảy, Hà-nội, s. 433 (3 Octobre 1942)
 

ĐỌC “ÔNG GIÁO GIÀ” THƠ CHÂU THẠCH - Bích Liên Nguyễn


Ảnh thầy cô Nguyễn Bá Trình
 

ÔNG GIÁO GIÀ
(Tặng thầy Nguyễn Bá Trình)
 
Ông giáo già ngồi bên những lẳng hoa
Ông cảm thấy trong lòng mình ấm áp
Ngày xưa ấy ông còn xanh mái tóc
Bụi phấn bay cũng trắng cả đầu xuân
 
Đến hôm nay tuổi vào độ bát tuần
Tóc bạc trắng nhưng hồn còn xanh lắm
Nhìn lẳng hoa tươi những màu rất thắm
Ông yêu đời nên đời chẳng quên ông
 
Ông giáo già ngồi nhớ những dòng sông
Mà ông đã đưa đò qua bến chữ
Những năm tháng xác thân ông mệt lử 
Đói xác xơ ông chẳng bỏ tay chèo
 
Ông giáo già ngồi nhớ buổi gieo neo
Trường như bến và khách đi chẳng lại
Có một kẻ ở bên ông mãi mãi
Đã vì ông tiếp sức cánh tay chèo
 
Ông giáo già đứng dậy, mang theo
Hết cả hoa mà học trò đã tặng
Đặt vào tận tay bà rồi lẳng lặng
Hôn nụ hôn như nắng mới xuân về.
               
                             Châu Thạch
                    (Ngày nhà giáo 20-11)

LỮ QUỲNH, CÁI CÁN CÂN CỦA VĂN HỌC MIỀN NAM – Đỗ Trường

                       (Mục chân dung nhà văn - Đỗ Trường)
 
Nhà văn Lữ Quỳnh

Sau 1954, Việt Nam bị cắt làm đôi, với hai thể chế chính trị hoàn toàn trái ngược nhau. Cũng như kinh tế, và xã hội, mỗi miền đều có nền văn học riêng của mình. Nếu văn chương miền Nam như bản nối dài của dòng văn học hiện thực lãng mạn, thì miền Bắc mở ra thời kỳ văn học tuyên tuyền, minh họa đường lối lãnh đạo của Đảng CS. Ngoài ra, do điều kiện địa lý tự nhiên cũng như lịch sử để lại, chúng ta có những đặc tính văn hóa của mỗi vùng, miền khác nhau. Từ đó đã sản sinh ra những nhà văn, nhà thơ với ngôn ngữ, văn phong, bút pháp nghệ thuật mang dấu ấn đặc trưng của từng vùng, miền ấy. Do vậy, khi đọc một cuốn sách, nếu tinh ý một chút, ta có thể nhận ra, quê quán, nơi sinh trưởng của tác giả.
 

Thứ Ba, 29 tháng 3, 2022

CHÙM THƠ “MỘT...” CỦA LÊ VĂN TRUNG


   

 
MỘT ĐÓA TRẦN GIAN
 
Trong vườn đêm ấy trăng vừa nở
Một đóa trà mi bừng ngát hương
Trăng biếc thơm như lòng khuê phụ
Ái tình mỏng quá, mỏng như sương
 
Ủ giấc mơ mềm đêm tóc rối
Vòng tay lạnh nhớ gió vàng thu
Gối lệch nghiêng hoài bên cõi mộng
Nhớ gì quay quắt một câu thơ
 
Hình như đêm ấy trăng hàm tiếu
Hình như lòng xuân chưa mãn khai
Ai ướp vào trăng màu nguyệt thắm
Ai ươm vào trăng mật ứ đầy
 
Em về đêm mỏng tình như lụa
Em về trăng thơm mùi hương trầm
Cho tôi vẽ nốt màu thiên cổ
Một đóa trần gian còn nguyên xuân.
                               

THÁNG BA NĂM ĐÓ – Thơ Nguyên Lạc


 


THÁNG BA NĂM ĐÓ
 
Tháng ba người nhớ hay không?
"Tháng ba gãy súng" não nùng đời nhau [*]
 
1.
Tháng ba lại tháng ba nào
Tháng ba năm đó làm sao quên người?
Tháng ba vỡ mộng tình đôi
Tháng ba thảm lắm tình tôi nghìn trùng!
 
Mười năm về lại dã nhân
Thấy đời hụt hẫng đoạn trường bể dâu
Tìm người giờ biết tìm đâu?
Tìm trong ký ức những câu nhạc tình?
"Chanh đường uống ngọt môi trinh"
"Hẹn hò cuốn quít thiên đường lối xưa" [**]
Lối xưa lạ lẫm hững hờ
Phố xưa đã đổi màu cờ máu tim
Đường xưa giờ đã đổi tên
Nhà xưa đổi chủ buồn tênh cổng gài
Tin người ? Như khói sương phai!
Dã nhân lê bước thở dài mưa rơi
Thôi tôi mất dấu em rồi
Trùng dương cuồng nộ vùi đời thanh xuân!
 
2.
Tha hương kiếp "luân lạc nhân"
Ai người tri kỷ cùng ngâm Hồ Trường?
"Hồ trường, hồ trường, ta biết rót về đâu?
Rót về Đông phương, nước bể Đông chảy xiết sinh cuồng loạn
Rót về Tây phương, mưa Tây rơi từng trận chứa chạn
Rót về Bắc phương, ngọn Bắc phong vi vút đá chạy cát dương
Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt,
có người quá chén như điên như cuồng" [***]
Mùa về đắ́ng chén lưu vong
Thống ngâm thơ cổ ngất hồn tháng ba!
 
Tháng ba cuộc đó đã xa
Xa rồi... xa lắm... sao ta vẫn buồn?
Tháng ba mưng mủ vết thương
Người ơi nhức nhối... đoạn trường sao quên?!
.
Tháng ba nâng chén mình ên
Hồn người lính cũ buồn tênh phận mình
Tháng ba đắng chén nhân sinh
Mất, còn bạn hữu bóng hình khói sương
 
Thì thôi nhân thế vô thường
Bầu nghiêng, rượu rưới thay hương khóc người!
Tháng ba lại tháng ba rồi
Hồ trường cô lữ lệ mời tháng ba!
 
                                                        Nguyên Lạc
..............
 
[*] Tên hồi ký của Cao Xuân Huy
[**] Mượn ý "Uống ly chanh đường, uống môi em ngọt" và câu nhạc khác của Phạm Duy
[***] Hồ Trường-Nguyễn Bá Trác
.......................

“Tháng Ba Gãy Súng” – hồi ký Cao Xuân Huy: Ghi lại cuộc “di tản chiến thuật” của các người lính Thủy Quân Lục Chiến (VNCH) tháng 3, 1975 tại cửa biển Thuận An – Quảng Trị. Ngoài một số bị giết, đa số các TQLC còn lại bị bắt làm tù binh, rồi đi “cải tạo”.

HÃY ÔM MẸ ĐẤT – Thơ Tịnh Bình


                      Nhà thơ Tịnh Bình
 
 
HÃY ÔM MẸ ĐẤT
 
Tôi sợ một ngày Người sẽ đi xa...
Khi không thể bao dung nổi loài người độc ác
Đầy cuồng tâm và tham vọng
Hát lên bài ca yêu thương vô vọng
Bằng chính sức mình nhỏ nhoi
Khi những cánh rừng không ngừng đổ xuống
Những dòng sông nhiễm độc không thể soi bóng mây trời
Nắng không ngừng thiêu đốt
Mưa không ngừng than van
Chỉ lũ Virus gian ác không ngừng sinh sôi và hung hãn
 
Tôi sợ một ngày Người sẽ vỡ tan
Những vòng xoay dần dần lệch trục
Hỡi quỹ đạo xiêu vẹo
Bước chân Người đã nhọc mệt và già nua lắm rồi
 
Hãy ôm mẹ Đất vào lòng
Và chữa trị vết thương trên thân thể Người bằng chính tâm thức yêu thương của chúng ta...
 
                                                                                   TỊNH BÌNH
                                                                                     (Tây Ninh)

BÊN SÔNG SÀI GÒN ĐỌC THƠ ĐÀ LẠT – Thơ Châu Thạch


   


BÊN SÔNG SÀI GÒN 
   ĐỌC THƠ ĐÀ LẠT

(Tặng Nguyễn An Bình)
 
Ngồi bên sông Sài Gòn
Đọc thơ về Đà Lạt
Gió Hồ Xuân Hương ngát
Trong thơ Nguyễn An Bình
 
Đèn Sài Gòn lung linh
Sông Sài Gòn lặng lẽ
Hương thông rừng thoáng nhẹ
Từ trong thơ bay ra.
 
Có tiếng gì xa xa
Như tiếng rừng rơi lá
Lá rơi buồn rất lạ
Đà Lạt sương và mơ!
 
Đà Lạt trong tập thơ
"Tình Tôi Người Lữ Khách"
Tay ta cầm tập sách
Lòng mơ Mimosa.  
 
Lòng mơ con đường hoa
Hoa đào và phượng tím
Nhớ và thương kỷ niệm
Rừng hương, hoa thơ xinh
 
Đêm nay ta một mình
Ngồi bên sông Sài Gòn
Đọc thơ Nguyễn An Bình
Men thơ và men tình
Làm ta say ngây ngất!
 
              Châu Thạch