BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC
Hiển thị các bài đăng có nhãn LA THỤY. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn LA THỤY. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 9 tháng 10, 2024

VOI BIỂN LÀ “HẢI TƯỢNG” HAY “HẢI MÔ ? - La Thụy sưu tầm và biên tập

 



          VOI BIỂN LÀ “HẢI TƯỢNG” HAY “HẢI MÔ ?

Câu hỏi có vẻ ngớ ngẩn, khi mà ai cũng biết từ Hán Việt “tượng” là voi, tất nhiên VOI BIỂN phải là HẢI TƯỢNG. Nhưng, không phải tự dưng tôi đặt ra câu hỏi “ngớ ngẩn” trên. Việc gì cũng có nguyên do cả (như “nguyên lý túc lý” trong triết học).

Năm 1967, tôi học lớp nhất (tương đương với lớp năm hiện nay). Khi học môn Khoa Học Thường Thức, bài “động vật Bắc cực” thấy giới thiệu về gấu trắng, hải cẩu và hải mã. Nhìn hình vẽ thì con hải mã to lớn và đặc biệt có 2 cái ngà nhọn hoắt chỉa ra từ miệng. Sách Khoa Học Thường Thức lớp nhất hồi đó cho biết HẢI MÃ nặng trung bình 1,5 tấn. Tôi tự hỏi con vật to lớn, có ngà trông giống con voi, chẳng giống ngựa tí nào, tại sao không có tên là HẢI TƯỢNG mà lại mang tên HẢI MÃ. Bẵng đi một thời gian dài, đọc sách báo, tôi thấy có đề cập đến HẢI TƯỢNG. Tôi truy cập tìm hiểu “hải tượng” là con vật như thế nào, quả nhiên như suy nghĩ của tôi thời tiểu học: HẢI MÃ còn được gọi là hải tượng.

Thứ Sáu, 13 tháng 9, 2024

RAU TẦN, RAU TẢO CÓ PHẢI LÀ ĐỒ CÚNG TẾ NGÀY XƯA Ở TRUNG HOA KHÔNG? La Thụy sưu tầm và biên tập


                                        Một loại rau Tần: 
Rau bợ nước

Tôi chia sẻ STT “Nguồn gốc hai chữ ‘tảo tần’ của trang face “Chiết tự chữ Hán” vào trang face của tôi. Nội dung phần đầu của STT đó như sau:
 
  “ ‘Tảo tần’là một từ để chỉ đức tính đảm đang, chịu thương chịu khó, thường là của phụ nữ. Nhưng nguồn gốc của từ này là như thế nào?
‘Tảo tần’, chữ Hán viết là 藻蘋, trong đó:
     - TẢO  là rong rêu, chỉ chung các thứ cỏ mọc ở dưới nước. Như “hải tảo” 海藻 là rong biển.
     - TẦN  còn đọc với âm "bình", có lẽ TẦN là một loại rau lục bình nổi trên mặt nước, ta thường gọi là bèo.
 Như vậy, ‘tảo tần’ là rau tảo và rau tần. Người xưa dùng rau tảo và rau tần để dâng lên cúng tổ tiên. Hái rau tảo và rau tần là việc chuyên trách của người phụ nữ xưa. Rau tần thường mọc hoang dại bên bờ suối, còn tảo thì sinh trưởng trong lòng suối như các loại rong, cả hai đều không dễ mà hái được. Do đó người vì đạo hiếu với tổ tiên mà lặn lội đi tìm rau tảo rau tần là người đảm đang, đáng khen ngợi.....”
 
Khi tôi chia sẻ bài này lên trang face của tôi, nhiều bạn vào ghi còm, khen chê và thắc mắc đủ cả. Đặc biệt có một bạn ghi còm như sau:

“Đúng là lươn lẹo suy luận cách ngờ nghệch khi tần, tảo là những thứ rau cỏ mọc hoang kém giá trị mà dám bảo đem về thờ cúng !”.
 
Tôi trả lời bạn ấy:

“Những rau cỏ mọc hoang trong thiên nhiên đâu phải là những thứ kém giá trị, có khi là thảo dược quý hiếm có giá trị rất cao như: đông trùng hạ thảo, nhân sâm, linh chi... mà người ta săn lùng đỏ mắt và đang cố gắng đem về trồng trong vườn nhưng sản phẩm thu hoạch do người trồng có phẩm chất không bằng sản vật trong thiên nhiên.
TẢO và TẦN mà người phụ nữ Trung Hoa xưa vất vả tìm kiếm và thu hái để cúng tế, hẳn là loại TẢO và TẦN đặc biệt có ý nghĩa và giá trị cao chứ đâu phải thứ tảo và tần vô giá trị, bạ đâu vơ nấy...”
 

Thứ Năm, 12 tháng 9, 2024

MÙA THU – APOLLINAIRE – BÙI GIÁNG – PHẠM DUY - HOA THẠCH THẢO - La Thụy sưu tầm và biên tập


                 

Sắc màu thu đã gieo nhiều cảm hứng cho hồn thơ tứ nhạc. Nhiều bài thơ, bản nhạc viết về THU dù đã trải qua bao năm tháng phôi pha vẫn in đậm nét trong lòng người thưởng lãm. Là người yêu nhạc (loại nhạc có air “bán cổ điển”), ai mà không thuộc các bản “Buồn tàn thu” của Văn Cao, “Giọt mưa thu”“Đêm thu”, “Con thuyền không bến”… của Đặng Thế Phong , “Thu quyến rũ” của Đoàn Chuẩn Từ Linh , “Thu vàng” của Cung Tiến, “Em ra đi mùa thu” của Phạm Trọng Cầu, “Chiếc lá thu phai” của Trịnh Công Sơn , “Mùa thu Paris” của Phạm Duy, “Thu hát cho người” của Vũ Đức Sao Biển, “Thu ca” của Phạm Mạnh Cương v.v… Đặc biệt, bản “Mùa thu Chết” của Phạm Duy, bản nhạc hay nhưng có nhiều thắc mắc về xuất xứ của ca từ.
     
Bản nhạc này lấy ý của bài thơ “L’ADIEU” của Guillaume Apollinaire, điều này có lẽ được nhiều người chấp nhận. Tuy nhiên lời Việt của bản nhạc “Mùa thu chết” thì không ít ý kiến cho rằng là do chính thi sĩ Bùi Giáng chuyển ngữ từ nguyên tác tiếng Pháp bài “L’ADIEU” nói trên, Phạm Duy chỉ phổ nhạc mà thôi. Để nhìn nhận cho khách quan, ta thử đối chiếu nguyên tác với bản dịch của Bùi Giáng và lời nhạc của Phạm Duy.
 
 a/ Bài thơ của Apollinaire:
 
           L'ADIEU
 
           J'ai cueilli ce brin de bruyère
           L'automne est morte souviens-t'en
           Nous ne nous verrons plus sur terre
           Odeur du temps brin de bruyère
           Et souviens-toi que je t'attends
 
           GUILLAUME APOLLINAIRE
 
b/Bản dịch của thi sĩ Bùi Giáng :
 
           LỜI VĨNH BIỆT
 
           Ta ngắt đi một cành hoa thạch thảo (*)
           Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
           Chúng ta sẽ không tương phùng được nữa
           Mộng trùng lai không có ở trên đời
           Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
           Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó...
 
                                                   BÙI GIÁNG
   (*) Câu này còn có dị bản:
 
          Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
 
c/ Ca từ trong bản “Mùa thu chết” của Nhạc sĩ Phạm Duy:
 
           MÙA THU CHẾT
 
           Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
           Em nhớ cho Mùa Thu đã chết rồi !
           Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
           Mùa Thu đã chết, em nhớ cho
           Mùa Thu đã chết, đã chết rồi. Em nhớ cho !
           Em nhớ cho,
           Đôi chúng ta sẽ chẳng còn nhìn nhau nữa!
           Trên cõi đời này, trên cõi đời này
           Từ nay mãi mãi không thấy nhau
           Từ nay mãi mãi không thấy nhau...
           Ta ngắt đi một cụm hoa thạch thảo
           Em nhớ cho Mùa Thu đã chết rồi !
           Ôi ngát hương thời gian mùi thạch thảo
           Em nhớ cho rằng ta vẫn chờ em.
           Vẫn chờ em, vẫn chờ em
                 Vẫn chờ....
                                    Vẫn chờ... đợi em !
 
                                            PHẠM DUY    

Thứ Sáu, 6 tháng 9, 2024

CHÚT TẢN MẠN VỀ CÁC ĐOẢN VĂN “TỰU TRƯỜNG” CỦA ANATLOLE FRANCE, “TÔI ĐI HỌC” CỦA THANH TỊNH VÀ “CẢM THU” CỦA ĐINH HÙNG - La Thụy


      

CHÚT TẢN MẠN VỀ CÁC ĐOẢN VĂN “TỰU TRƯỜNG” CỦA ANATLOLE FRANCE, “TÔI ĐI HỌC” CỦA THANH TỊNH VÀ “CẢM THU” CỦA ĐINH HÙNG
                                                                                            La Thụy

Ngày khai trường với kỷ niệm mơn man làm tôi nhớ đoản văn LA RENTRE'E DES CLASSES (TỰU TRƯỜNG) của nhà văn Anatole France - trích từ quyển “Le Livre de mon ami” (Cuốn Sách Của Bạn Tôi). Đoản văn TỰU TRƯỜNG của nhà văn Anatole France có ảnh hưởng lớn tới tâm hồn nhà văn Thanh Tịnh, khi ông viết truyện ngắn TÔI ĐI HỌC. Hình ảnh chú bé A. France trong ngày tựu trường khơi dậy những tình cảm trong sáng, bỡ ngỡ và êm ái của tuổi thơ. Bởi hơn đâu hết, chính những thầy giáo vỡ lòng, thông qua trang hồi kí tuyệt vời ấy, đã đánh thức ở họ những xúc cảm đầu đời: niềm đam mê học hành và tình yêu văn chương nghệ thuật.

Xin trích dẫn các bản dịch của Phạm Tất Đắc, Bùi Bảo Trúc và bản tiếng Pháp Anatole France

* Bản dịch của Phạm Tất Đắc:

“Tôi sẽ kể cho bạn nghe những gì gợi cho tôi nhớ lại hàng năm bầu trời chập chùng của mùa thu, những bữa cơm chiều đầu tiên ăn dưới ánh đèn và những chiếc lá đang úa vàng dần trong những chòm cây run rẩy. Tôi sẽ kể bạn nghe mình đã nhìn thấy gì khi qua vườn Luxembourg vào những ngày đầu tháng mười, khi phong cảnh hơi buồn và đẹp hơn bao giờ hết, vì đó là những ngày mà lá cây rơi từng chiếc một trên bờ vai trăng trắng của các pho tượng… Điều tôi nhìn thấy lúc đó, trong vườn ấy, là một chú bé con, tay đút túi quần, cặp sách trên vai, đang bước tới trường, vừa đi vừa nhảy nhót như một chú chim sẻ. Chỉ tâm tư tôi nhìn thấy chú bé, vì đó chỉ là một bóng hình. Đó là bóng hình tôi cách đây hăm lăm năm…”
                                           (Trích một đoạn dịch của Phạm Tất Đắc)

Chủ Nhật, 11 tháng 8, 2024

VÌ SAO GỌI LÀ “MƯA NGÂU, ÔNG NGÂU BÀ NGÂU... ? – La Thụy


6 cách viết NGÂU theo tự dạng chữ Nôm trong quyển “Tự Điển Tiếng Nôm” của Lê Văn Kính

Hôm nọ, anh em khi trà dư tửu hậu có người thắc mắc vì sao gọi là “mưa ngâu”, vì sao gọi là “ông ngâu bà ngâu”. Tất nhiên, truyền thuyết Ngưu Lang Chức Nữ được đưa ra để giải thích. Người thắc mắc lại hỏi vậy sao không gọi là “mưa ngưu”, “ông ngưu bà ngưu”. Một ông bạn cho rằng “ngâu” là cách đọc chệch chữ Ngưu. Thế là một ông bạn khác cười chế nhạo: “mưa ngưu”“mưa trâu” “ông ngưu bà ngưu”“ông trâu bà trâu” à !?!  Vì sao có sự đọc chệch như thế ? Mà vì sao không đọc chệch theo cách khác đi?
 
Ông bạn khác lại cho rằng:
Gọi là “mưa ngâu”, “ông Ngâu bà Ngâu” vì loài hoa ngâu gắn liền với câu chuyện tình Ngưu Lang – Chức Nữ từ xa xưa. Hoa ngâu mang ý nghĩa về một tình yêu thủy chung, với khát vọng tự do trong tình yêu.  Nhưng ông bạn lại không nêu được sự liên quan giữa Ngưu Lang Chức Nữ và hoa ngâu như thế nào trong truyền thuyết.
 
Tôi nghĩ ông bà của ta xưa gọi là “mưa ngâu”, “ông ngâu bà ngâu” chắc có lý do, mình thử tra tìm tiếng “NGÂU” trong chữ Nôm (chữ viết của ông bà ta hồi xưa) xem sao! Chữ Nôm vốn mượn âm và chữ của Hán Tự mà, nên chắc chắn có liên quan về cách viết, cách đọc thôi.
 
Hỏi thăm những bậc tiền bối về Hán Nôm, họ cho biết có tới 6 cách viết NGÂU theo chữ Nôm. Đó là âm đọc chữ Hán “ngưu” (trâu); kế tiếp là: chữ “ngưu” bộ mộc, chữ “ngưu” bộ thảo; chữ “ngô” bộ mộc; chữ “ngô” bộ thảo; chữ “ngao” bộ mộc.
 
Tra từ điển Hán Nôm trên mạng, tôi tìm ra chỉ có 4 cách viết. 



Vẫn còn thiếu 2 cách viết sau :
 - NGÂU là âm Nôm đọc chữ đọc chữ Hán “ngưu” có bộ mộc: Hoa ngâu.
- NGÂU là âm Nôm đọc chữ đọc chữ Hán “ngao” có bộ mộc: Hoa ngâu.

Thứ Ba, 16 tháng 7, 2024

“BÀI CA HỌC TRÒ”, HAI BẢN NHẠC ĐƯỢC YÊU THÍCH TRONG GIỚI SINH VIÊN HỌC SINH HUẾ CỦA HAI NHẠC SĨ KHÁC NHAU (Phan Ni Tấn và Nguyễn Quyết Thắng) - La Thụy

Trước năm 1975, giới sinh viên học sinh miền Nam chúng tôi ở Huế rất thích 2 bản nhạc BÀI CA HỌC TRÒ của 2 nhạc sĩ Phan Ni Tấn và Nguyễn Quyết Thắng.
 
Đặc biệt 2 bản nhạc có phong cách và nội dung đặc thù thể hiện tâm trạng giới trẻ của chúng tôi thuở đó.
 
- “BÀI CA HỌC TRÒ” (1) – Nhạc và lời của Phan Ni Tấn, xuất phát từ bài thơ “Kính thưa thầy” ký bút hiệu N.D được đăng trong tờ Văn của nhà văn Mai Thảo trước khi nó chuyển thành nhạc phẩm “Bài Ca Học Trò” do chính tác giả bài thơ Phan Ni Tấn phổ nhạc. Bản nhạc “Bài Ca Học Trò” nói lên tâm trạng u uất của giới trẻ chúng tôi trước cuộc chiến nồi da nấu thịt dai dẳng, đau thương trên quê hương Việt Nam thuở đó.
 
Nhạc sĩ Phan Ni Tấn

- “BÀI CA HỌC TRÒ” (2) – Vốn là bài thơ “Những tối hoa xưa” của Đoàn Bằng Hữu được nhạc sĩ Nguyễn Quyết Thắng phổ nhạc. Bản nhạc này nói lên tình cảm yêu đương trong sáng, thơ mộng của thanh niên chúng tôi. Bây giờ các trang mạng đều trả lại tên gốc bản nhạc là “Những tối hoa xưa” như tựa đề của bài thơ.
 
Nhạc sĩ Nguyễn Quyết Thắng

Nhạc sĩ Phan Ni Tấn và nhạc sĩ Nguyễn Quyết Thắng đều tham gia phong trào du ca Nguyễn Đức Quang trước 1975. Hiện cả hai nhạc sĩ đều định cư ở nước ngoài.
 
1/
“BÀI CA HỌC TRÒ” – Nhạc và lời của Phan Ni Tấn
 
Kính thưa thầy đây bài chính tả của con
Bài chính tả viết về nước Mỹ
Con viết hai lần sai chữ "America"
Con viết hai lần sai chữ "communist"
Con viết hai lần sai chữ "liberty".
 
Làm sao được, làm sao được bởi anh con vừa chết
Kính thưa thầy đây bài luận triết của con
Một căn nhà và một trái phá
Một đám cưới hồng bên cạnh một đám ma
Một kiếp sống tàn dưới biển người no ấm
Ôi tiếng hát nào bên lệ em tuôn mau.
 
Làm sao thuộc bài con học để vinh thân đời sau
Kính thưa thầy đây là bài toán của con
Những đường cong, đường thẳng đều có gài mìn
Từ trong thành phố có bar, có Mỹ, có con gái học trò
Đường vào rừng có hầm hố cá nhân
Đường vào đời có xương máu căm hờn.
 
Con đã chứng minh nhiều lần
Đường ngoằn ngoèo qua Mỹ, qua Paris thật ngắn
Nhưng không thể nối liền Sài gòn, Hà Nội
Nhưng không thể nối liền thành phố với làng quê
Con không đậu tú tài để đi sĩ quan Đà Lạt
Con không đậu tú tài để thành bác sĩ, kỹ sư.
 
Kính thưa thầy đây bài thuộc lòng của con
Tổ quốc Việt Nam bốn ngàn năm văn hiến
Một trăm năm Pháp thuộc, hai mươi năm đoạ đày
Làm sao con thuộc được truyện Kiều, Nguyễn Du.
 
Những bài thơ mùa thu Nguyễn Khuyến
Những bài công dân sử địa
Những bài học con ngại ngùng không dám đọc to
Trên đường phố hay những vùng ngoại ô.
 
Kính thưa thầy đây là quyển vở của con
Suốt một năm chưa một tờ có chữ
Con để dành ép khô những dòng nước mắt
Của cha con, của mẹ con, của chị con và của chính con.
 
                                                                    Phan Ni Tấn
 
Thơ & nhạc: Phan Ni Tấn - Elvis Phương hát

https://www.youtube.com/watch?v=NL2kVyX3fxo
 
Nhạc sĩ Phan Ni Tấn trình bày bản nhạc BÀI CA HỌC TRÒ do chính ông sáng tác

2/ “BÀI CA HỌC TRÒ” –  Thơ Đoàn Bằng Hữu. Nhạc Nguyễn Quyết Thắng
 
NHỮNG TỐI HOA XƯA
 
Năm mười, mười lăm hai mươi
Tôi che mắt kiếm em cười rất trong
Con trăng sớm biết mặn nồng
Bay ngang một sợ mây hồng như mơ ơ ơ...
 
Thương em xé vở học trò
Đêm khuya cắn bút làm thơ tỏ tình
Trên giòng lục bát mông mênh
Gọi mưa về lá hồn nhiên ngủ vùi
 
Năm mười, mười lăm hai mươi...
Còn người xanh tóc yêu người tóc xanh
 
                              Nguyễn Quyết Thắng
 
 
Thơ Đoàn Bằng Hữu. Nhạc Nguyễn Quyết Thắng. Cung My hát

Nhạc sĩ Nguyễn Quyết Thắng và ca sĩ Vành Khuyên trình bày bản nhạc NHỮNG TỐI HOA XƯA


                                                                                         La Thụy

Thứ Bảy, 29 tháng 6, 2024

OẢN LÀ GÌ ? – La Thụy sưu tầm và biên tập



Tương truyền, khi vua Lê Trung Tông mất không có người nối dõi, Trịnh Kiểm định soán ngôi nhà Lê nhưng chưa dám quyết nên đã sai người tới hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Ông cũng không nói năng gì mà dẫn sứ giả ra chùa thắp hương bảo: “Mấy năm nay mất mùa, nên tìm giống cũ mà gieo”. Rồi Trạng lại sai chú tiểu quét dọn chùa sạch sẽ và nói: “Giữ chùa thờ phật thì ăn oản”, ý nói giữ làm bề tôi của các vua Lê thì tốt hơn.
Trịnh Kiểm nghe theo liền sai người đi tìm tôn thất nhà Lê đưa lên ngôi, tức là vua Lê Anh Tông. Họ Trịnh mượn tiếng nhà Lê nhưng thực chất nắm quyền điều hành chính sự, hai bên cùng tồn tại tới hơn 200 năm. Vì thế mà có câu: Lê tồn, Trịnh tại.

Chủ Nhật, 19 tháng 5, 2024

LIÊN TƯỞNG TỪ “Ổ MÌ XÍU” TUỔI THƠ ĐẾN “THỊT XÁ XÍU” BÂY GIỞ - La Thụy



Mấy hôm nay, ăn sáng tôi hay dùng bánh mì kẹp thịt, dù cũng khá ngon, nhưng sao tôi vẫn cảm thấy không bằng“ổ mì xíu” của quê hương Quảng Trị mà tôi đã từng ăn từ thời còn nhỏ.
  
Ôi! “ổ mì xíu” nóng giòn, được ăn vào sáng mùa đông lạnh buốt của các xe đẩy bán hàng rong lấy bánh mì từ lò Đắc Lập (gần nhà máy đèn thị xã Quảng Trị) về chế biến, lúc tôi còn học tiểu học, sao mà ngon đến thế!


“Ổ mì xíu” này không hề có rau, dưa leo, đồ chua... như ổ bánh mì kẹp thịt bây giờ. Ổ mì xíu Quảng Trị bình dị, chỉ đơn giản thịt xíu kho, “nước xíu” thật ngon để chan vào giữa ổ bánh mì.“Ổ mì xíu” là cách nói tắt của “Ổ bánh mì xá xíu”
 
Nước thịt xíu kho rim sánh vàng nâu cánh gián, chỉ chan với bánh mì cũng thơm ngon lạ lùng
 
Tìm hiểu “xá xíu” có nghĩa là gì? Tôi biết:
 
Thịt xá xíu người Hoa (Char siu -) được hiểu là thịt heo quay, nướng hoặc kho rim.
 
Xá xíu là món ăn có nguồn gốc từ Quảng Đông, Trung Quốc được làm từ cách quay hoặc nướng thịt heo ở nhiệt độ cao. Thịt heo được chọn để làm xá xíu thường là phần thịt vai, được lạng bỏ phần xương, tẩm ướp gia vị và mang đi quay, nướng trên lửa ở nhiệt độ cao.
 
Theo thời gian, xá xíu theo chân những người Hoa di cư du nhập vào Việt Nam và trở thành món ăn quen thuộc và hấp dẫn đối với người dân nơi đây đặc biệt là ở miền Nam.
 
Ngày nay, xá xíu đã được chế biến và kết hợp với nhiều món ăn khác nhau như: bánh bao xá xíu, hủ tiếu xá xíu, mì xá xíu,...và được khá nhiều người yêu thích và đón nhận.
 
Tìm hiểu thêm (xá xíu) có âm Hán Việt và có nghĩa như thế nào, ta thấy:

có âm Hán Việt là XOA THIÊU

XOA 
1. bắt chéo tay
2. những thứ có đầu toè ra
3. dạng ra, khuỳnh ra
4. cái chĩa, cái nĩa, cái đinh ba
5. Đâm, xiên
 
THIÊU, THIẾU 
Đốt, đun, nấu, quay, xào, nướng
 
Như vậy, có lẽ ban đầu, người Quảng Đông, xiên thịt heo để quay nướng trên ngọn lửa có nhiệt độ cao. Sau này, họ chiên xào, kho rim thành món “xá xíu” như bây giờ.
 
Tìm trên mạng, tôi thấy “bánh mì xá xíu” của Huế, Đà Nẵng,... không giống như “mì xíu” mà tôi từng được ăn thuở còn nhỏ ở quê nhà Quảng Trị.
 

Bánh mì thịt xíu - kiểu Huế (hình lấy từ trên mạng)

Bánh mì thịt xíu Đà Nẵng (hình lấy từ trên mạng)

Thịt xá xíu người Hoa (Char siu -叉烧)

Đi ăn quán, tôi thấy “thịt xá xíu” của tô mì hoành thánh và các món ăn khác không hề giống như “thịt xíu” trong “ổ mì xíu” tuổi thơ của tôi ở Quảng Trị, thập niên 1960s một chút nào cả!

Có lẽ “thịt xá xíu” mà tôi thấy ở trong tô mì hoành thánh, trong tô hủ tiếu là phần thịt vai được người Hoa chế biến bằng cách tẩm ướp, chiên (hoặc nướng) cho vàng đều các mặt, rồi mới đun với chút ít nước sôi cho thịt chín mềm, thấm vị

Thịt xá xíu người Hoa (Char siu -叉烧)

Còn “thịt xíu” trong “ổ mì xíu” mà tôi ăn thời còn nhỏ ở quê nhà, là thịt heo ba chỉ được kho rim một cách đặc biệt nên “thịt xíu”“nước xíu” chan vào bánh mì thật thơm ngon...

          Thịt xíu và nước xíu chan vào ổ bánh mì ở Quảng Trị  trước năm 1972

Kỷ niệm tràn về, cảm xúc dâng trào làm tôi bồi hồi nhớ mãi tuổi thơ hoa mộng một thời ở cố hương! 
                                                                                              La Thụy

Thứ Ba, 16 tháng 4, 2024

MÓN ĂN NGẦU PÍN – La Thụy sưu tầm



Tra cứu từ điển Hán Việt, ta thấy:
NGẦU PÍN có âm Hán Việt là NGƯU TIÊN 牛鞭 : dương vật bò, trâu.
Ngầu pín còn gọi đơn giản là "pín" xuất phát là tiếng Quảng Đông, Trung Quốc (“ngầu” hay “ngưu”: tức là con trâu, con bò, “Pín” hay “tiên”) là thuật ngữ dùng để chỉ về bộ phận sinh dục của con bò đực và cũng là những món ăn được chế biến từ dương vật và tinh hoàn của một số động vật như bò, trâu

*
Âm Hán Việt của PÍN là TIÊN nghĩa là “cây roi”.
TIÊN  có âm Pinyin là /biān/ và âm Quảng Đông là là /bin1/, /Pín/ 
 
Có 2 câu thơ nói về “cây roi” của trạng nguyên trong đêm động phòng:
 
“Kim tiêu động phòng hoa chúc dạ,
Thí khán trạng nguyên nhất điều tiên”
 
今宵洞房花燭夜,
試看狀元一條鞭
(Bùi Độ hoàn đái 裴度還帶)
 
Đêm nay là đêm động phòng hoa chúc,
Thử xem "cây roi da" của trạng nguyên.
 
Như vậy NGƯU TIÊN 牛鞭 hay NGẦU PÍN chỉ “cây roi da” của trâu, bò hay chính là dương vật của loài thú này đó thôi.

Thứ Hai, 11 tháng 3, 2024

MỘT BÀI CA DAO VIỆT NAM ĐƯỢC CHUYỂN SANG HÁN NGỮ - Chuyện phiếm của La Thụy



La Thụy đọc trên báo SỐNG của Chu Tử trước 1975 một bài viết ngộ nghĩnh. Bây giờ chỉ còn nhớ một đoạn ngắn về việc chuyển ngữ bài ca dao Việt Nam sang chữ Hán. Post lên chia sẻ anh chị em đọc cho vui...
Bài ca dao nói về “sự đời em cái lá đa” đó mà...
 
“Sáng trăng em ngỡ tối trời
Em ngồi em để sự đời em ra
Sự đời như cái lá đa
Đen như mõm chó, chém cha sự đời.”
 
Bài ca dao được “dịch” sang chữ Hán như sau:
 
“Minh nguyệt ngộ u dạ
Ngã tọa phô thế sự
Thế sự như đa diệp
Hắc như khuyển khẩu
Trảm phụ thế sự...”
 
明月悞幽夜
我坐舖世事
世事如栘叶 
黑如犬口
斬父世事

(Ghi lại theo trí nhớ bài viết của Chu Tử đăng trên báo Sống trước 1975)
*
Bài ca dao chỉ gồm 4 dòng lục bát (28 chữ), nhưng “được” chuyển sang thể ngũ ngôn đến 5 dòng (trong đó 2 dòng cuối chỉ có 4 chữ mỗi dòng), nên chỉ gọn 23 chữ thôi. Chữ “đa” (trong cụm từ “lá đa”) chỉ có trong tiếng Việt nên người dịch mượn chữ (đa) trong Hán tự có nghĩa là “nhiều” rồi thêm bộ mộc để viết thành . Âm Nôm chữ đọc đúng là “đa”, nhưng có âm Hán Việt là “di” nghĩa là cây “đường lệ” 棠棣 (theo truyền thuyết).
Người dịch chỉ cà rỡn dịch thôi. Khi chữ Hán không có từ ngữ viết về lá đa, nên chúng ta tạm chấp nhận vậy.