Nguyễn Đức Tùng sinh tại Quảng Trị, hiện là bác sĩ - nhà văn sống ở Canada. Anh làm thơ, dịch thuật, viết phê bình rồi đăng tải trên các trang mạng và các tạp chí văn học trong và ngoài nước. Thơ Nguyễn Đức Tùng thâm trầm và giàu chất suy tưởng về sự vật, hiện tượng và con người xung quanh. Năm 2009, anh công bố cuốn sách “Thơ đến từ đâu” - trước đó đã đăng dài kỳ trên Talawas, bao gồm những bài phỏng vấn các nhà thơ đang sống ở trong nước và ngoài nước về thơ Việt mà đã được đăng rải rác trên các trang mạng văn chương. Cuốn sách ngay lập tức đã trở thành một hiện tượng văn học trong năm đó, và được thảo luận sôi nổi giữa các nhà thơ, nhà phê bình, nghiên cứu.
La Thuỵ xin giới thiệu tuỳ bút CÁI HỘP GIẤY mà anh vừa mới gửi qua email.
CÁI HỘP GIẤY
Nguyễn Đức Tùng
Vừa lái xe ra khỏi siêu thị đông đúc ồn ào chiều cuối tuần, hai ngày trước lễ Giáng sinh, đang lúng túng, tôi giật mình nghe tiếng kêu của một gã lái xe chạy vụt qua. Không hiểu hắn ta nói gì, đoán là tiếng chửi thề của bọn thanh niên nóng tính. Trời cuối năm lạnh căm căm, mọi vật sáng lên một lúc như vẫn thường thấy khi bắt đầu đổ tuyết, sáu tháng sau khi tôi lấy bằng lái xe, một năm sau ngày đến Canada. Chạy thêm một quãng, lần này một chiếc xe khác ghé sát vào, chậm lại, cô gái ngồi ghế trước bên phải quay hẳn kính xuống, la: Cái hộp! Cái hộp của mày trên trần! Tóc cô quấn cao, môi son đỏ mọng.
Tôi giật mình tạt vào lề. Quả nhiên một cái hộp giấy vẫn còn nằm yên trên trần xe.
Đó là cái hộp không.
Hồi ấy bà con thường dùng những hộp giấy cứng để đóng thùng gửi quà về Việt Nam. Những người muốn giúp đỡ gia đình hay gặp rắc rối trong việc gửi tiền mặt, phần vì hệ thống chuyển tiền chưa thuận tiện như bây giờ, phần vì sự phản đối trong dư luận. Cách tốt nhất là gởi thuốc Tây, lý do nhân đạo, vẫn dễ hơn. Ngày nghỉ cuối tuần, thay vì đi câu cá hay đi nhảy đầm với bạn bè, uống bia trong các pub house, tôi cặm cụi vào hiệu thuốc tìm mua đủ loại, nhét đầy hộp. Đối với kháng sinh và thuốc đặc biệt, tôi phải đến bác sĩ để xin toa vì không thể mua ngoài thị trường. Những thứ khác, nhất là dầu khuynh diệp xanh lá cây hiệu con Ó, thơm nồng, cay mắt, tôi mua tự do. Cứ mười ve dầu đóng gói trong một hộp lớn, cũng màu xanh. Tôi mua sẵn để dành, gởi lần hồi. Người nhà tôi bị bệnh gì mà phải dùng đến kháng sinh, thuốc hồi dương, steroids, thuốc nấm móng tay, trị lao phổi, chống ung thư nhiều thế?
Họ chẳng có bệnh gì cả. Mà nếu bệnh, họ cũng chỉ uống thuốc rễ cây, uống nước rau má, xông hơi lá chanh lá sả ngoài hè, chứ chẳng hề dám nghĩ tới thuốc Tây sang trọng. Đến tay người nhận, chỉ vài ngày sau thùng thuốc đã nằm ngoài chợ trời. Ôi chợ trời. Tôi đã đi qua Hàm Nghi, dọc đường Nguyễn Huệ, Lê Thánh Tôn, Gia Long, chợ Cồn Đà Nẵng, Hố Nai, Tây Lộc Huế, Đông Hà. Ở đâu chợ Trời cũng nhộn nhạo, vui vẻ, nhớp nháp, vừa héo vừa tươi. Ngươi đã nuôi sống bao nhiêu người khốn khó, cưu mang nhiều kiếp lạc loài. Bao người lương thiện nhờ ngươi mà sống sót, bao kẻ lưu manh nhờ ngươi mà thành quý tộc.
Xếp hàng bưu điện cuối năm đông người, vật lộn với những thùng giấy, những sợi dây bện, những cuộn băng keo đến toát mồ hôi, luống cuống cân đo, bị cô nhân viên mặt đầy mụn trứng cá khó đăm đăm trả đi trả lại vì ghi sai địa chỉ, trả tiền lệ phí, ra khỏi bưu điện trong siêu thị tôi thở phào mừng quýnh. Nghĩ đến những người thân bên kia biển Thái Bình sắp nhận thùng quà của mình, tôi vui quá nên quên trước quên sau. Nghĩ đến quang cảnh tòa nhà Bưu điện Sài gòn sơn xanh cũ kĩ nhưng uy nghi, duyên dáng, với đàn chim bồ cây trắng bay lượn mỗi chiều khi mưa vừa tạnh. Mặt bàn cà phê nhỏ xinh có mùi hành tỏi, mùi tương ớt của tô bún ốc ai vừa bưng đi. Nhớ người thiếu nữ sinh viên sư phạm mái tóc đen tuyền thả ngang vai, nhà ở gần đường Lạc Long Quân, chiều chiều đạp xe dưới hàng cây sầu đông qua trường đua Phú Thọ, về quận mười một, sắp nhận được cục xà phòng Camay thơm thơm, gói thật kỹ, nhét trong hộp thuốc tây, tôi sướng rơn người, tay run lên.
Rồi lan man nghĩ đến bức thư nhận được tháng trước của đứa cháu gái, con đầu lòng của ông anh họ đi tập kết. Hai vợ chồng anh tôi có bốn đứa con nhỏ, nó là đứa lớn nhất, mười ba tuổi, đứa em nhỏ mới sinh. Thư kể: bốn tháng nay nhà cháu không có cái ăn. Em bé mới sinh, mẹ khắt sữa không có gì bú, tối nào cũng khóc đến kiệt sức, cháu dỗ mãi mà nó không nín. Con bé đi học về liền ném cặp sách, xắn quần lội ruộng, mò cua bắt óc, nhưng trời nắng hạn, bùn khô quánh lại, có gì ăn được thì thiên hạ đã bắt hết. Anh tôi hình như là trưởng phòng công nghiệp huyện. Anh than: sắp sụp đổ rồi em ơi. Đó là những năm tám mươi. Đọc thư, tôi thương các cháu quá.
Và nghĩ đến mẹ tôi ở Nhan biều, chiều chiều ngồi dưới gốc cau già bên hiên duy nhất còn sót lại sau chiến tranh, giữa giàn lá trầu cả gió rụng sớm, đổ vàng. Tôi lấy cái hộp giấy nhân tiện ném vào băng ghế sau rồi tàn tàn lái đi tiếp. Đang mở cassete trên xe nghe tiếng hát Hương Lan Còn Thương Rau Đắng Mọc Sau Hè, sau một khúc quanh, lại nghe tiếng một người lái xe hét lớn: Cuộn băng! Cuộn băng keo của mày! Tôi hấp tấp dừng xe lần nữa, bước xuống coi đi coi lại, thì ra sau khi lấy cái hộp trên trần tôi vẫn còn sơ ý để quên cuộn băng keo lớn, khá nặng, ở trên mui phía sau. Cuộn băng keo màu xám, trong vắt, nằm ở đó lửng lơ nhưng không rớt dù xe đã chạy cả giờ đồng hồ, như một người hành khách lên trễ xe đò sợ bị đuổi xuống liền cố sức bám chặt vào mặt thép trơn, lạnh.
Thỉnh thoảng trên đường ta nghe một người lái xe hét lớn: Nắp xăng! Nắp bật ra! Dành cho một người lái xe có chuyện vội vàng quên đóng nắp xăng, mùi xăng bốc ra nửa thơm nửa gắt ngạt mũi. Và khi chiều về, mặt trời tắt sau núi, bỗng nghe một người lái xe khác chạy vút qua vui vẻ kêu lên: Ly cà phê! Ly cà phê trên trần! Có thể đoán kẻ lái xe là một người đãng trí, bị bệnh mất ngủ, thường uống cà phê, vì cái ly còn nóng. Hoặc lúc ấy hắn ta đang thất tình? Hay đang bâng khuâng nhớ nhà, nhớ nước, tưởng tượng đạp xe qua thong thả dưới hàng cây sầu đông hoa nhỏ tím một người muôn năm cũ, mái tóc ngang vai thơm xà phòng Camay, hay cánh tay để trần thoảng mùi dầu khuynh diệp?
Nguyễn Đức Tùng
bachnguyen@shaw.ca