Nhà thơ Nguyễn Đức
Tùng
LÀNG QUÊ
Khi
anh trở về
Người
vợ đã chết
Vết
máu khô trên ngực
Trong
bụi tre cú rúc liên hồi
Tiếng
thứ nhất: anh không nghe
Tiếng
lần thứ hai: anh dừng lại
Tiếng
thứ ba: anh lờ mờ nhận ra
Anh
đặt thang thuốc bắc lên thềm nhà
Cúi
đầu, lùi lại
Rồi
nhổ sào
Rời
bến.
Nguyễn Đức
Tùng
Không! Những câu thơ chẳng phán bảo loan truyền thông
điệp gì cả. Thơ là thơ và vọng âm cứ bằng bặt im lời trong chiều muộn đêm trăng
xế.
Một bậc cửa, vết máu khô, tiếng cú rúc. Chữ không trau
chuốt đẹp, hình không lóng lánh sắc màu và thanh âm chẳng hề dịu ngọt. Thơ là đời
và cuộc sống bừng hiện, dừng lại trong những khoảnh khắc đậm đặc nhất của tuyệt
vọng, nỗi chết, của chia ly tàn mục. Ngọn sào nhổ lên, thuyền rời bến và cuộc sống
cứ chảy đi trên dòng thời gian bất tuyệt. Không thể khác. Người sống phải sống
và người chết cũng đã chết rồi.
Thơ còn là người. Đã tràn lan những câu thơ nôn thốc
nôn tháo kinh nguyệt và đờm dãi khoe mông má thịt đùi chỉ để bày biện cái
libido, cũng ê hề đây đó những tụng ca sáo rỗng. Lý Bạch “cúi đầu nhớ cố hương”; còn anh cúi đầu như một mặc niệm, một nhớ
thương. Tôi nghĩ, thơ là nhan sắc và người cần có diện mạo. Diện mạo đó, trước
hết, là diện mạo của văn hóa Việt. Thang thuốc bắc, ở đây, dù không còn tác dụng
gì, vẫn là nghĩa tình chồng vợ đậm chất Đông Phương, giàu tính Việt.
Nhưng “Làng quê” của Nguyễn Đức Tùng ám ảnh
ám thị tôi, không phải vì câu chuyện sinh lão bệnh tử mà vì thanh âm của tiếng
đêm cú rúc. Rờn rợn, khàn đục, the thắt. Và không phải vô tình, nó lặp lại đến
ba lần. “Quá tam ba bận”. Vâng! Có là người hoài nghi chủ nghĩa cũng phải tự khẳng
định: cuộc sống không chỉ có ríu rít xuân ca. Nó trăm ngàn the thía mùi vị đấy!
Đối mặt với nó và sống!
“Làng
quê” vỏn vẹn 11 câu thơ nhưng từng con chữ nén lại, giấu một
tiếng thở dài, chưng cất một nỗi đau và đặc biệt, trong chừng mực, đã hóa giải
tâm thế vực ngờ của người đương đại.
Lê Vũ
(Sài Gòn)
(Sài Gòn)