BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC
Hiển thị các bài đăng có nhãn ĐƯỜNG THI. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn ĐƯỜNG THI. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 23 tháng 2, 2024

"ỨNG CHIẾU PHÚ ĐẮC TRỪ DẠ" CỦA SỬ THANH – Đỗ Chiêu Đức


     
SỬ THANH 史青, thi nhân đời Đường, người đất Linh Lăng, thông minh dĩnh ngộ. Đầu những năm Khai Nguyên (713-741) ông đã dâng thơ lên vua Đường Huyền Tông nói rằng mình trong vòng 5 bước có thể làm được một bài thơ. Đêm ba mươi Tết nhà vua đã ra đề cho ông làm bài thơ nói về đêm "Trừ Tịch", rồi "Thượng Ngươn" và "Trúc Hỏa Long"... Ông đều ứng khẩu thành thơ trong vòng 5 bước. Đường Huyền Tông hết sức tán thưởng, khen ông có tài làm thơ mẫn tiệp còn hơn cả Tào Tử Kiện (Tào Thực) đời Hán đã 7 bước thành thơ, nên phong ông làm Tả Giám Môn Vệ Tướng Quân. Sau đây là bài thơ "Ứng Chiếu Phú Đắc TRỪ DẠ 應詔賦得除夜", có nghĩa "Phụng chiếu để làm bài thơ đêm Giao Thừa".    
 

Thứ Bảy, 30 tháng 12, 2023

HAI BÀI THƠ “MAI TUYẾT” CỦA LƯ MAI PHA – Đỗ Chiêu Đức


Tuyết Mai nhị thủ của Lư Mai Pha
                                   
TUYẾT MAI Nhị Thủ 雪梅二首 là hai bài thơ thất ngôn tứ tuyệt nói về MAI TUYẾT và THƠ của thi nhân Lư Mai Pha 盧梅坡 đời Nam Tống. Hai bài thơ đã nói lên sự gắn bó không thể tách rời giữa Hoa mai, Tuyết trắng và Thơ ca; một sự kết hợp tuyệt vời của "Ba trong Một" mà nếu thiếu mất Một thì sẽ không thể tạo nên cái không gian và cảnh trí đẹp đặc sắc của buổi đầu xuân, khi Chúa Xuân vừa ngự đến...      
Nào, ta hãy đọc hai bài thơ nầy để đón chào Đông Quân của GIÁP THÌN 2024 nhé!...
    
其一                             KỲ NHẤT
梅雪爭春未肯降,     Mai Tuyết tranh xuân vị khẳng hàng,
騷人擱筆費評章。     Tao nhân các bút phí bình chương.
梅須遜雪三分白,     Mai tu tốn tuyết tam phân bạch,
雪却輸梅一段香。     Tuyết khước thâu mai nhất đoạn hương.
 

* Chú thích:
    - Hàng : là đầu hàng, là Chịu thua. VỊ KHẲNG HÀNG là Chẳng chịu thua.
    - Tao Nhân 騷人 : là Tao nhân mặc khách chỉ khách văn chương, văn nhân thi sĩ.
    - Các Bút 擱筆: là Gác bút, không viết được.
    - Bình Chương 評章 : là Văn chương thi ca bình phẩm.
    - Tốn : là Khiêm tốn; là nhường nhịn, là Sút kém.
    - Thâu : là Thua, là Sút kém.
 
* Nghĩa bài thơ:
      - Mai và Tuyết cùng tranh nhau mùa xuân mà chẳng ai chịu nhường ai cả.
      - Các tao nhân mặc khách cũng đành gác bút không muốn phí lời bình phẩm.
      - Bạch Mai thì sút kém hơn Tuyết ba phần về sắc trắng. Còn...
      - Tuyết thì thua Mai vì Mai còn có một làn hương thơm thoang thoảng.
 

Thứ Ba, 10 tháng 1, 2023

BÀI THƠ “TRỪ DẠ TÚC THẠCH ĐẦU DỊCH” CỦA ĐỚI THÚC LUÂN – Đỗ Chiêu Đức


Đới Thúc Luân 戴叔倫
       
Đới Thúc Luân 戴叔倫 (732-789) Thi nhân đời Đường, tự là Ấu Công 幼公 hay Thứ Công 次公. Người đất Kim Đàn thuộc Nhuận Châu (tỉnh Giang Tô ngày nay). Lúc còn trẻ bái danh sĩ Tiêu Dĩnh Sĩ 蕭穎士 (717-768) làm thầy. Đậu Tiến sĩ năm Trinh Nguyên đời Đường Đức Tông (785).  Ông từng giữ các chức vụ Huyện lệnh Tân Thành, Huyện lệnh Đông Dương, Thứ sử Vũ Châu và Dung Quản Kinh Lược Sứ. Về già dâng biểu từ quan xin làm đạo sĩ. Thơ của ông thường tả đời sống ẩn dật an nhàn. Bài thơ dưới đây được làm lúc ông đã về già đang giữ chức Thứ Sử Vũ Châu, trên đường về đón Tết đã trọ tại dịch quán Thạch Đầu.
    
除夜宿石頭驛     TRỪ DẠ TÚC THẠCH ĐẦU DỊCH
     
旅館誰相問     Lữ quán thùy tương vấn,     
寒燈獨可親。     Hàn đăng độc khả thân.    
一年將盡夜,     Nhất niên tương tận dạ,     
萬里未歸人。     Vạn lý vị quy nhân.     
寥落悲前事,     Liêu lạc bi tiền sự,     
支離笑此身。     Chi li tiếu thử thân.     
愁顏與衰鬢     Sầu nhan dữ suy mấn,    
明日又逢春。     Minh nhật hựu phùng xuân.           
    戴叔倫                            Đới Thúc Luân
 

* Chú thích:
 
    - Thạch Đầu Dịch 石頭驛 : DỊCH là Dịch Quán 驛館 là nhà trọ của các quan chức vãng lai. THẠCH ĐẦU DỊCH là Quán dịch Thạch Đầu; còn gọi là Thạch Kiều Quán 石橋館, ở huyện Tân Kiến của tỉnh Giang Tây.
    - Tương Tận 將盡 : là Sắp hết; sắp chấm dứt.
    - Liêu Lạc 寥落 : là Thưa thớt, lạnh lẽo; Ở đây chỉ buồn bã lẻ loi.
    - Chi Ly 支離 : là Phân tán, rời xa.
    - Sầu Nhan 愁顏 : là Dung nhan âu sầu, chỉ gương mặt buồn bã.
    - Suy Mấn 衰鬢 : là Tóc mai đã bạc và thưa, ý chỉ đã tàn tạ.
 

Thứ Tư, 28 tháng 12, 2022

BÀI THƠ “THƯƠNG HỮU NHÂN ĐIẾU XUY TIÊU KỸ” CỦA ĐỖ MỤC – Đỗ Chiêu Đức


Đỗ Mục  杜牧
 
ĐỖ MỤC (803-852) tự là Mục Chi 牧之, người đất Vạn Niên Kinh Triệu, thuộc Tây An ngày nay. Ông là cháu của Tể Tướng Đỗ Hựu, đậu Tiến sĩ năm Đại Hòa thứ 2 đời vua Đường Văn Tông (828), từng giữ chức Hoằng Văn Quán Hiệu Thư Lang, lần lừa qua các nơi như Giang Tây, Hoài Nam, Tuyên Hợp. Sau lại giữ các chức như Tả Bổ Khuyết, Thiện Bộ, Tỉ Bộ Viên Ngoại Lang, Mục Châu Thứ Sử, Hồ Châu Thứ Sử, cuối cùng giữ chức Trung Thư Xá Nhân. Thơ của ông thanh thoát phóng khoáng, lời hay ý đẹp chuyên về Thất ngôn Tứ tuyệt và Thất ngôn Luật thi. Đỗ Mục và Lý Thương Ẩn là cặp "LÝ ĐỖ" của buổi Tàn Đường. Sau đây là bài thơ "thương vay khóc mướn" của ông làm thay một người bạn để khóc cho một cô Kỹ nữ thổi tiêu trong Phàn Xuyên Văn Tập 樊川文集.
 

Thứ Ba, 27 tháng 12, 2022

BÀI THƠ “KÝ XUÂN” CỦA VƯƠNG BỘT - Đỗ Chiêu Đức


Vương Bột  王勃
 
Vương Bột650676) tự là Tử An 子安, quê quán miền bắc (Sơn Tây), con nhà gia thế, tuổi trẻ tài cao, ông là người đứng đầu trong TỨ KIỆT ở buổi Sơ Đường, được Bái Vương Lý Hiền vời vào phủ cho giữ việc tu soạn và rất tin dùng. Vì một bài thơ trách đùa con gà chọi của Anh Vương, vua Cao Tông nổi giận, sai trục xuất ông khỏi phủ. Ông đi chu du nhiều nơi ở phương nam, cuối cùng chết đuối trên đường đi Giao Chỉ thăm cha, lúc mới 26 tuổi…

Thứ Sáu, 23 tháng 12, 2022

BÀI THƠ “TÂN NIÊN TÁC” CỦA LƯU TRƯỜNG KHANH – Đỗ Chiêu Đức


LƯU TRƯỜNG KHANH
 
LƯU TRƯỜNG KHANH 劉長卿 (726-786) tự là Văn Phòng, người huyện Tuyên Thành (thuộc tỉnh An Huy ngày nay) giỏi về thơ ngũ ngôn và ngũ ngôn luật. Ông làm quan đến chức Giám Sát Ngự Sử, có giao tình rất hậu với Thi tiên Lý Bạch.        
Mùa xuân năm Chí Đức thứ 3 (758), vì chính kiến bất đồng, từ chức Trưởng Châu Úy của Tô Châu, ông bị biếm đến Phan Châu tỉnh Quảng Đông lãnh chức Nam Ba Úy. Tết năm đó ông làm bài thơ dưới đây để bày tỏ nỗi lòng của mình.
 
新年作               TÂN NIÊN TÁC

鄉心新歲切,    Hương tâm tân tuế thiết,
天畔獨潸然。    Thiên bạn độc san nhiên.
老至居人下,    Lão chí cư nhân hạ,
春歸在客先。    Xuân quy tại khách tiên.
嶺猿同旦暮,    Lãnh viên đồng đán mộ,
江柳共風煙。    Giang liễu cộng phong yên.
已似長沙傅,    Dĩ tự Trường Sa Phó,
從今又幾年 ?    Tòng kim hựu kỷ niên ?
        
    劉長卿                    Lưu Trường Khanh

Thứ Năm, 17 tháng 11, 2022

CHÙM THƠ “TRƯỜNG TƯƠNG TƯ” (“TƯƠNG TƯ” - THƠ CỦA VƯƠNG DUY, “TƯƠNG GIANG OÁN” - KHÚC NHẠC CỦA LƯƠNG Ý NƯƠNG”...) – Đỗ Chiêu Đức


 
 A. Bài thơ TƯƠNG TƯ ngắn nhất:
        
Tương truyền, nước Nam ngày xưa, gồm Lưỡng Quảng bây giờ, có người chinh phụ hay tin chồng đã chết ở chiến trường, nên đau lòng khóc thương đến chết ở bờ rào. Ít lâu sau nơi đó mọc lên một dây đậu trổ ra toàn là đậu đỏ. Dân làng gọi đó là  "Tương Tư Tử 相思子 ": là Hạt Nhớ Nhau. Trong Đường Thi có bài thơ ngũ ngôn tuyêt cú Tương Tư 相思 nổi tiếng của Thi Phật Vương Duy có nhắc đến loại Đậu Đỏ nầy:

Hồng ĐẬU sanh Nam quốc,   紅豆生南國,               
Xuân lai phát kỷ chi?             春來發幾枝 ?               
Nguyện quân đa thái hiệt,       願君多採擷,             
Thử vật tối tương ti (tư).        此物最相思

Diễn nôm:

Nước Nam có đậu hồng,                    
Xuân về trổ mấy bông ?                    
Xin người hái lấy để trong...             
Áo xiêm xao xuyến cho lòng nhớ nhau!
 
 

Thứ Bảy, 15 tháng 10, 2022

BÀI THƠ “PHONG” CỦA LÝ KIỆU – Đỗ Chiêu Đức


 
     
LÝ KIỆU 李嶠 (644-713) tự là Cự Sơn 巨山, Tán Hoàng 贊皇, danh sĩ đời Sơ Đường, người đất Hà Bắc, là cháu chắc của Nội Sử Thị Lang Lý Nguyên Tháo đời nhà Tùy. Tuổi trẻ tài cao, hai mươi tuổi đã đậu Tiến sĩ, làm quan đến chức Trung Thư Lệnh, tánh tình cương trực liêm chính. Vì làm nghịch ý Võ Hậu mà bị biếm làm Tư Mã Nhuận Châu, sau được triệu về làm Phụng Các Xá Nhân. Ông giỏi văn thơ, sánh ngang với Sơ Đường Tứ Kiệt Vương Bột 王勃、Dương Quýnh 楊炯、Lư Chiếu Lân 盧照鄰、Lạc Tân Vương 駱賓王 lúc bấy giờ; cùng với Tô Vị Đạo 蘇味道、Thôi Dung 崔融、Đỗ Thẩm Ngôn 杜審言 (Ông nội của Thi Thánh Đỗ Phủ) hợp xưng là “Văn Chương Tứ Hữu 文章四友. Trong một lần TỨ HỮU cùng dạo chơi trên núi Lư Phong Sơn, phong cảnh cỏ hoa trên núi rất đẹp, khi vừa lên đến đỉnh núi thì có một làn gió thổi thốc đến rất mát mẻ sảng khoái, Lý Kiệu bèn nổi hứng mà viết nên bài thơ về GIÓ như sau đây :
 

Thứ Tư, 12 tháng 10, 2022

CHÙM THƠ “TRƯỜNG TƯƠNG TƯ” CỦA LÝ DÃ, LÝ DỤC, LÂM BÔ – Đỗ Chiêu Đức


    
Một trong TỨ ĐẠI NỮ THI NHÂN đời Đường là李冶 (730-784), tự là Quí Lan 季蘭 (Thái Bình Quảng Ký 太平廣記 ghi là TÚ LAN 秀蘭), người đất Ô Trình (thuộc Ngô Hưng tỉnh Chiết Giang hiện nay). Bà là nữ thi nhân nổi tiếng trên thi đàn đời Đường lúc bấy giờ. Mặc dù lớn lên với chiếc áo của nữ đạo sĩ, Lý Quí Lan vẫn cởi mở phóng khoáng như một nam nhân, chẳng những giỏi về thơ văn, bà còn tinh thông cả âm luật và giỏi về đàn cầm nữa. Bà gặp được danh sĩ Chu Phóng lúc bấy giờ. Tài tử giai nhân nhất kiến chung tình, đang khi đôi lứa đang mặn nồng thì Chu Phóng lại nhận chiếu chỉ đi làm quan xứ khác. Thương nhớ dâng tràn khiến hồn thơ cũng lai láng, Lý  Quí Lan đã viết nên bài thơ nổi tiếng "Tương Tư Oán 相思怨" sau đây:
 

Thứ Năm, 6 tháng 10, 2022

CHÙM THƠ “TRƯỜNG TƯƠNG TƯ” CỦA LÝ BẠCH – Đỗ Chiêu Đức



                                            
THI TIÊN LÝ BẠCH
     
Năm Thiên Bảo thứ ba đời Đường Huyền Tông (744), Lý Bạch vì hạ câu "Khả lân Phi Yến ỷ tân trang 可憐飛燕倚新妝" trong bài thứ 2 của 3 bài Thanh Bình Điệu, nên bị Thái Úy Cao Lực Sĩ dèm pha là Lý đã miệt thị Dương Quý Phi. Cuối cùng Lý đành phải từ quan đi ngao du tứ hải. Trên bước đường phiêu du khắp các vùng giang nam giang bắc để uống hết rượu ngon trong thiên hạ, đôi lúc Lý cũng chạnh lòng nhớ lại thuở vàng son và cuộc sống xa hoa lãng mạn một thời ở đất Trường an mà viết nên những dòng thơ đượm tình ướt át sau đây; Chúng ta cùng đọc lại 3 bài thơ cổ phong "Trường Tương Tư" của Thi Tiên sáng tác trong khoảng thời gian nầy nhé!
 

 長相思 (其一)          TRƯỜNG TƯƠNG TƯ (Kỳ I)
 
長相思,在長安。    Trường tương tư, tại Trường an.
絡緯秋啼金井闌,    Lạc vĩ thu đề kim tỉnh lan.  
微霜悽悽簟色寒。    Vi sương thê thê điệm sắc hàn.
孤燈不明思欲絕,    Cô đăng bất minh tư dục tuyệt,
卷帷望月空長嘆。    Quyển vi vọng nguyệt không trường thán.
美人如花隔雲端。    Mỹ nhân như hoa cách vân đoan.
上有青冥之高天,    Thượng hữu thanh minh chi cao thiên,
下有淥水之波瀾。    Hạ hữu lục thủy chi ba lan.
天長路遠魂飛苦,    Thiên trường địa viễn hồn phi khổ,
夢魂不到關山難。    Mộng hồn bất đáo quan san nan.
長相思,摧心肝。    Trường tương tư, thôi tâm can!
          李白                                                         Lý Bạch
 

Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2022

CHÙM THƠ “TRƯỜNG TƯƠNG TƯ” CỦA BẠCH CƯ DỊ – Đỗ Chiêu Đức


TRƯỜNG TƯƠNG TƯ
       
TƯƠNG TƯ 相思 là NHỚ NHAU, mà đã nói là NHỚ NHAU thì phải là hai người chớ không thể nào là một người được; Nên, Bệnh Tương Tư là bệnh của những người yêu nhau, của những cặp đôi, của những cặp vợ chồng... vì lý do nào đó mà phải xa cách nhau, rồi nhớ thương nhau mà... thành bệnh. Từ ngàn xưa đến nay có biết bao nhiêu lứa đôi phải đau khổ day dứt và nhớ thương nhau thắm thiết vì... hai đứa hai nơi và vì chỉ có một bên có dịp bày tỏ, nên hễ buồn đau sầu khổ vì nhớ người yêu đến nỗi ăn không ngon ngủ không yên, thì đều gọi là BỆNH TƯƠNG TƯ cả; Mặc dù chỉ có "một bên" bày tỏ nỗi lòng mà thôi! Ta hãy cùng đọc lại những vần thơ Tương Tư, Trường Tương Tư... của thời đại hoàng kim của thi ca ngày xưa để xem các "ông bà" lúc đó đã yêu nhau và nhớ nhau như thế nào nhé! Nào, ta hãy bắt đầu bằng những vần thơ Trường Tương Tư của Thi Bá Bạch Cư Dị nhé!
 

Thứ Năm, 15 tháng 9, 2022

“NGUYỆT DẠ ỨC XÁ ĐỆ”, “BÁT NGUYỆT THẬP NGŨ DẠ NGUYỆT”, THƠ ĐỖ PHỦ - Đỗ Chiêu Đức



Năm Càn Nguyên thứ 2 đời Đường Túc Tông (759), bốn năm sau loạn An Lộc Sơn, thời cuộc vẫn còn rất rối ren. Bấy giờ Đỗ Phủ từ quan ở Hoa Châu, dắt díu gia quyến về tạm cư tại Tần Châu, thành Tần Châu thuộc phía tây của Lục Bàn Sơn, là vùng ven biên. Tháng 9 cùng năm, Sử Tư Minh từ Phạm Dương dẫn quân xuôi về nam đánh chiếm Biện Châu, tấn công Lạc Dương, Sơn Đông , Hà Nam các nơi đều chìm trong chiến loạn, nên anh em nhà Đỗ Phủ đều ly tán mỗi người một nơi, bặt vô âm tín. Trung Thu năm đó Đỗ Phủ vì ưu tư thương nhớ anh em mà làm nên bài thơ dưới đây:
 
Bài thơ NGUYỆT DẠ ỨC XÁ ĐỆ:
 
月夜憶舍弟       NGUYỆT DẠ ỨC XÁ ĐỆ
  
戍鼓斷人行,     Thú cổ đoạn nhân hành,
邊秋一雁聲。     Biên thu nhất nhạn thanh.
露從今夜白,     Lộ tòng kim dạ bạch,
月是故鄉明。     Nguyệt thị cố hương minh.
有弟皆分散,     Hữu đệ giai phân tán,
無家問死生。     Vô gia vấn tử sinh.
寄書長不達,     Ký thư trường bất đạt,
況乃未休兵。     Huống nãi vị hưu binh!
      杜甫                                 Đỗ Phủ

Thứ Bảy, 10 tháng 9, 2022

"QUAN SAN NGUYỆT", "TĨNH DẠ TƯ" THƠ CỦA LÝ BẠCH – Đỗ Chiêu Đức


 
4. Bài thơ QUAN SAN NGUYỆT:
         
               QUAN SAN NGUYỆT
                                
明月出天山,       Minh nguyệt xuất Thiên San,        
蒼茫雲海間。       Thương mang vân hải gian.          
長風幾萬里,       Trường phong kỷ vạn lý,       
吹度玉門關。       Xuy độ Ngọc Môn Quan.        
漢下白登道,       Hán hạ Bạch Đăng đạo,       
胡窺青海灣。       Hồ khuy Thanh Hải loan.          
由來征戰地,       Do lai chinh chiến địa,        
不見有人還。       Bất kiến hữu nhân hoàn.       
戍客望邊色,       Thú khách vọng biên sắc,       
思歸多苦顏。       Tư quy đa khổ nhan,          
高樓當此夜,       Cao lâu đương thử dạ,        
歎息未應閒。       Thán tức vị ưng nhàn                  
      李白                               Lý Bạch.
 
       
* Chú Thích:
    1.「天山」Thiên Sơn : Tức là Kỳ Liên Sơn, trong tỉnh Cam Túc ngày nay.
    2.「白登」Bạch Đăng : Tên núi, ở phía đông Đại Đồng tỉnh Sơn Tây hiện nay. Xưa Hán Cao Tổ từng bị Hung Nô dây khổn ở đây.
    3.「窺」Khuy : là dòm ngó.
    4.「青海灣」Thanh Hải loan : Tức Hồ Thanh Hải, nằm trong tỉnh Thanh Hải hiện nay.
    5.「高樓」Cao Lâu : Ở đây chỉ người vợ của kẻ chinh phu ở nhà. Một ý nữa : là Cái vọng gác cao của người lính thú.
 

Thứ Năm, 8 tháng 9, 2022

BÀI THƠ “BÁT NGUYỆT THẬP NGŨ NHẬT DẠ BỒN ĐÌNH VỌNG NGUYỆT” VÀ “VỌNG NGUYỆT HỮU CẢM” CỦA BẠCH CƯ DỊ - Đỗ Chiêu Đức



Bài thơ “BÁT NGUYỆT THẬP NGŨ NHẬT DẠ BỒN ĐÌNH VỌNG NGUYỆT”:
        
Bài thơ nầy được làm theo thể Cổ Phong vào đêm Trung Thu năm Đường Nguyên Hòa thứ 13818). Lúc bấy giờ Bạch Cư Dị vì dùng lời ngay thẳng can gián vua, mà xúc phạm đến những bậc quyền qúy đương thời, nên bị biếm làm Giang Châu Tư Mã ở đất Tầm Dương của xứ Giang Tây.
 
八月十五日夜湓亭望月 BÁT NGUYỆT THẬP NGŨ NHẬT  
                                          DẠ BỒN ĐÌNH VỌNG NGUYỆT
 
  昔年八月十五夜,      Tích niên bát nguyệt thập ngũ dạ,
  曲江池畔杏園邊。      Khúc Giang trì bạn Hạnh viên biên.
  今年八月十五夜,      Kim niên bát nguyệt thập ngũ dạ,
  湓浦沙頭水館前。      Bồn Phố sa đầu thủy quán tiền.
  西北望鄉何處是,      Tây bắc vọng hương hà xứ thị,
  東南見月幾回圓。      Đông nam kiến nguyệt kỷ hồi viên.
  臨風一嘆無人會,      Lâm phong nhất thán vô nhân hội,
  今夜清光似往年。      Kim dạ thanh quang tự vãng niên.
                 白居易                                             Bạch Cư Dị
 
      
* Chú thích:
    - Tích Niên 昔年 : là Năm xưa; những năm đã qua đi.
    - Bồn Đình 湓亭 : là một điểm trường đình được cất bên ven sông Tầm Dương.
    - Bồn Phố 湓浦 : là Bến nước bên sông Bồn. Bồn Giang là tên xưa của sông Long Khai Hà hiện nay ở tỉnh Giang Tây; Nơi tiếp giáp với sông Trường Giang là Bồn Khẩu, tức là bến Tầm Dương, nơi nhà thơ Bạch Cư Dị đi đày.
    - Khúc Giang Trì 曲江池 : Một thắng cảnh nằm ở phía nam của đất Trường an; từ đời Tần Thủy Hoàng đã cho xây Nghi Xuân Uyển ở đây, đến đời Hán Vũ Đế đổi thành Thượng Lâm Uyển; Vì dòng sông chảy quanh uốn khúc, nên gọi là Khúc Giang.
    - Hạnh Viên 杏園 : nằm ở Chu Tước Môn của Trường An, sát cạnh bên Khúc Giang Trì; đây là nơi các tân khoa Tiến sĩ ngày xưa được đãi tiệc và dạo chơi.
    - Thủy Quán 水館 : Cái quán cất trên bến nước, trên bãi cát (Sa Đầu 沙頭) người Miền Nam ta gọi là cái Nhà Sàn.