BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Gia Việt. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Gia Việt. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 9 tháng 12, 2024

VÙNG SÀI GÒN VÀ CÁC TỈNH MIỀN ĐÔNG KHÔNG CÓ CỒN, CHỈ CÓ CÙ LAO - Nguyễn Gia Việt



Chúng ta có thể lấy bằng chứng ở Phú Nhuận có đường Cù Lao ở khu Miếu Nổi để ghi nhớ xưa ở khúc rạch Nhiêu Lộc vùng này có cái cù lao.
Sài Gòn còn có cù lao Phù Châu ở sông Vàm Thuật Gò Vấp, cù lao Nguyễn Kiệu mé quận 4, cù lao Long Phước ở Thủ Đức. Nếu tính ra thì nguyên cái quận 4 là cù lao Khánh Hội. Thanh Đa (Thạnh Đa) là một cù lao.
Nổi tiếng nhứt Miền Nam là cù lao Phố, rồi còn có cù lao Rùa.
 
Miền Tây mới có cồn. Nhưng vẫn có cù lao, thí dụ cù lao Dung, cù lao An Bình, cù lao Thới Sơn, cù lao Mây, cù lao Năm Thôn. Người Miền Tây kêu bốn cái cồn long Lân Quy Phụng trên sông Tiền, trong đó cù lao Thới Sơn là cồn Lân.
 

Thứ Năm, 5 tháng 12, 2024

LUẬN BÀN VỀ GỎI CUỐN MIỀN NAM - Nguyễn Gia Việt



Khách từ phương xa về Sài Gòn hay đòi ăn gỏi cuốn. Vậy là chủ nhà phải lui cui mua đồ về làm, mua thịt ba rọi, tôm tươi, rau xanh rau sạch, bún, bánh tráng ngon, làm nước mắm đãi khách.
Món gỏi cuốn nhìn đơn giản nhưng cũng không hề giản đơn. Bánh tráng quấn rau và chấm.
Bánh tráng thì ở đâu không có, nhưng phải là bánh tráng Củ Chi loại nhứt. Rau gồm có xá lách, tía tô, rau quế, rau diếp cá, đọt xòai, lá non của đọt mận, đọt choại. Mấy năm nay còn thêm rau rừng như : xá xị, lá bứa, trâm ổi, chùm mồi, lá cách, săng máu, sao nhái, rau chạy...

Thứ Hai, 14 tháng 10, 2024

BỚT XÀM LẠI VỚI NHẠC PHẨM “THƯƠNG VỀ MIỀN TRUNG” - Nguyễn Gia Việt



Tự nhiên truyền thông VN trong nước cùng vài ca sĩ a dua khẳng định "Thương về Miền Trung" bấy lâu nay là "nhầm" tên tác giả.
Họ dựa theo lời con gái của cố nhạc sĩ Châu Kỳ là bà Châu Huyền Khanh nào đó nói đây là bài hát của cha cô sáng tác chứ không phải của Minh Kỳ.
Bậy bạ!
 
Bà Khanh nói Châu Kỳ viết bài “Thương Về Miền Trung” và đưa cho Duy Khánh hát rồi đứng tên vào "thập niên 1940" là phi logic.
Thập niên 1940 là năm 1940 hay 1949 thì Duy Khánh (sanh 1936) mới 4 hoặc 13 tuổi thôi.
 
Năm 1952 Duy Khánh lúc đó 16 tuổi khi đoạt giải ca sĩ ở đài Pháp Á Huế mới tham gia văn nghệ và vô Sài Gòn.
Duy Khánh chỉ nổi lên bên viết nhạc ở những năm sau 1960.
Bài “Thương Về Miền Trung” là bài nhạc ra đời năm 1962 và nghe kỹ là theo cái e nhạc quen thuộc kiểu Duy Khánh, không phải kiểu Châu Kỳ.
 
Thành ra báo chí và các nghệ sĩ bớt cái miệng lại khi nói bài hát đó là của Châu Kỳ.
  
                                                                               Nguyễn Gia Việt
*
Phụ lục:

Ca sĩ Duy Khánh trả lời phỏng vấn Đài Truyền hình Văn Nghệ VN quận Cam 1988, ông cho biết THƯƠNG VỀ MIỀN TRUNG là một trong những nhạc phẩm của ông về Huế...

Chủ Nhật, 3 tháng 3, 2024

DÙNG TỪ NGỮ “GA TÀU THỦY BẠCH ĐẰNG” NHƯ VẬY CÓ ĐÚNG KHÔNG? - Nguyễn Gia Việt



Lịch sử, văn hóa Sài Gòn đã có sự khó hiểu, sai lệch từ những năm sau này, khi mà chữ nghĩa Miền Nam đã bị thay đổi.
 
Lịch sử Bến Bạch Đằng đơn giản. Đây vốn là đất Kompong Luông vùng Sài Gòn. Pháp qua đặt tên đường từ cột cờ Thủ Ngữ tới công trường Mê Linh là Quai le Myre de Vilers, đoạn còn lại tới Ba Son là Quai d’Argonne.
 
Sau 1955 tổng thống Ngô Đình Diệm nhập hai đoạn đường lại đặt thành Bến Bạch Đằng. Kêu là bến vì đây là đại lộ ven sông, dưới là bến sông nhiều ghe tàu. Sau 1975 Bến Bạch Đằng bị xóa tên, đặt thành đường Tôn Đức Thắng. Tuy nhiên người Sài Gòn vẫn kêu là Bến Bạch Đằng. Và nay xuất hiện “ga tàu thủy” tại bến Bạch Đằng.

Thứ Sáu, 2 tháng 2, 2024

NGƯỜI MIỀN NAM ĐƯA ÔNG TÁO KHÔNG THẢ CÁ CHÉP SỐNG, KHÔNG THÒNG THÊM “ÔNG CÔNG” - Nguyễn Gia Việt


Táo quân Việt Nam, hình vẽ thế kỷ 19
 
Đưa cái tựa như vậy để nhắc các bạn, tại thấy có vài bạn Nam Kỳ cúng cá chép, rồi kêu Tết Ông Công Ông Táo, bạn làm lộn phong tục là không đặng
Đất lề quê thói. Miền Nam có tập tục của Miền Nam
 
"Hôm nay tháng chạp hăm ba
Tiễn đưa Ông Táo thăng la chầu trời"
 
Tết Ông Táo ngày 23 là cái lễ đầu tiên trong mùa Tết, là tri ơn cái bếp và ngọn lửa ấm áp trong nhà. Ngày 23 đưa thì ngày 30 lại đón, đón Ông Táo cùng đợt với đón ông bà tổ tiên. Cái bếp lò luôn cháy là cái nhà có người đàn bà siêng năng tần tảo, cái nhà ngon lành. Bếp lửa cuối năm sum hợp hạnh phúc
 

Thứ Tư, 24 tháng 1, 2024

NGƯỜI MIỀN NAM CHƯNG TRÁI CÂY NGÀY TẾT - Nguyễn Gia Việt




Người Miền Nam mà nói “chưng mâm ngũ quả” nghe kỳ cục
Một bạn hỏi rằng, “ngũ quả” là cách của Miền Bắc trăm phần trăm, vì chữ “quả”. Bạn nói nếu trúng Nam Kỳ phải kêu là “chưng trái cây”
 
1. Người Miền Nam không có “quả”, kêu “trái” hết

Ca dao Nam Kỳ thì có câu:
 
“Đưa em cho tới Đông Hồ
Em trả trái mít, em bù trái thơm”
 
Nam Kỳ kêu “trái”, Bắc Kỳ kêu “quả”. Người Miền Bắc kêu bưởi, đào, táo, cam, quýt... đều là “quả” hết. Chữ QUẢ là chữ Hán Việt, quả là trái cây
 
“Đôi ta ăn một quả cau
Cùng mặc áo vá nhuộm nâu một hàng
Bao giờ cho gạo bén sàng
Cho trăng bén gió, cho nàng bén anh”

Nhưng người Miền Nam lại không kêu quả, mà kêu là “trái”. Chữ “trái” là chữ bổn địa Miền Nam
 
“Nghe vẻ nghe ve, nghe vè trái cây
Dây ở trên mây là trái đậu rồng,
Có vợ có chồng là trái đu đủ,
Chặt ra nhiều mủ là trái mít ướt
Hình tựa gà xước, vốn thiệt trái thơm
Cái đầu chơm bơm, thiệt là bắp nấu
Hình thù xâu xấu, trái cà dái dê
Ngứa mà gãi mê là trái mắt mèo
Khoanh tay lo nghèo là trái bần ổi
Sông sâu chẳng lội là trái mãng cầu”
 
Người Bắc đọc “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” thì Nam Kỳ dạy“Ăn trái nhớ kẻ trồng cây”.
Sơn Nam trong “Cá tính của Miền Nam” viết về “Đào mương lên liếp” của Miệt Vườn. Miệt Vườn là văn minh Miền Nam, là nơi trồng nhiều trái cây
Cây ổi thì cho ra trái ổi và trái bưởi,... Trái cam, trái nho, trái lựu, trái bòn bon, trái dâu, trái măng cụt, trái cà chua, trái dưa leo, trái nhãn... đều là trái hết.

Hãy đọc những câu ca dao của người Nam Kỳ

“Đói lòng ăn trái ổi non
Nhịn cơm nuôi mẹ cho tròn nghĩa xưa”
 
Và:

“Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng nhồi biết tấp vào đâu?”
 
Nam Kỳ là xứ sở của vườn trái cây, của những vựa trái cây, chành trái cây...
Bài vè “Bậu lỡ thời” so sánh con gái quá lứa như trái cây chín rục:
 
“Bậu lỡ thời như trái chín cây
Trái chín cây người ta làm mứt
Bậu lỡ thời như giấy trôi sông
Giấy trôi sông không ai thèm ngó”
 
Miền Nam có quả, nhưng là “quả phụ” tức đàn bà góa chồng còn kêu là “cô phụ”, “sương phụ”. Ngoài ra còn có “nhơn quả”, “công quả” trong nhà Phật
Trong thể thao môn túc cầu hay còn kêu là môn “đá banh”, các cầu thủ giành nhau “trái banh”

Thứ Hai, 30 tháng 10, 2023

NGƯỜI TÌNH (L'AMANT) SA ĐÉC… - Nguyễn Gia Việt


Cảnh trong phim người tình

Năm 1992 khi chiếu bộ phim “Người tình” (L'Amant) của đạo diễn Jean-Jacques Annaud ở Việt Nam thiệt tình làm nhiều người Miền Nam choáng váng vì tình cảm sau những năm bao cấp vùi dập đã bị đánh thức.
Phim có hai nhân vật chánh, một cô gái trẻ người Pháp mặc cái áo đầm cũ và một “Người đàn ông Hoa kiều”.
Người đàn ông gốc Hoa đó đang từ Sa Đéc về Sài Gòn để thâu tiền nhà cho mướn, đang chung chuyến bắc Mỹ Thuận với cô gái và tiếng sét ái tình đã nổ ra.
Phim có nhân vật nam chánh là người Hoa ở Sa Đéc, vai do một diễn viên Hồng Kông đóng luôn và lấy nước mắt người Miền Nam suốt mấy chục năm ròng

Thứ Sáu, 11 tháng 2, 2022

NGÀY MỒNG MƯỜI THÁNG GIÊNG ÂM LỊCH NGƯỜI MIỀN NAM CÚNG ÔNG ĐỊA (CÚNG ĐẤT) HAY CÚNG THẦN TÀI ??? - Nguyễn Gia Việt



Người Miền Nam cúng mùng 10 là cúng đất đai và tri ơn người mở đất chứ không phải vía thần tài.
Hôm nay mùng 10 Tết, cái mùng cuối cùng của Tết.
Thấy mọi người nghe lời truyền thông cứ nói mùng 10 dân Nam Kỳ cúng Thần Tài, dân ào ào mua vàng lấy hên, tiệm vàng không còn vàng để bán, nghe riết thành quen.
Với người Nam Kỳ Lục Tỉnh ngày mùng 10 rất quan trọng, nó không phải vì Thần Tài.
Lịch sử Nam Kỳ quá trẻ, quá gần, không có nhiều quá khứ, nhưng quá khứ huy hoàng.
Bản chất dân Nam Kỳ đôn hậu mộc mạc.
Hồi xưa dân Nam Kỳ thích ở ruộng vườn nên để thương trường cho người Tàu thao túng.

Thứ Tư, 24 tháng 11, 2021

CHUYỆN CÁI CHÉN - Nguyễn Gia Việt




Người Việt mình đều ăn cơm, sống ăn cơm chết cũng cúng ba chén cơm, đó là văn minh lúa gạo.
Nhưng phần lớn các tỉnh Bắc Kỳ kêu cái đựng cơm và đũa ăn là cái bát, Nghệ An, Hà Tĩnh gọi là cái đọi, thì ở Nam Kỳ kêu là cái chén.
Chữ bát nó xuất phát từ chữ (bát) của cái bình bát một nhà sư ôm đi khất thực.
Còn chén là chữ Nôm, trong Hán tự chữ  (trản) là chỉ cái chung nhỏ để uống rượu, nhưng người Bắc Kỳ uống rượu và kêu là chén rượu, trong khi Nam Kỳ kêu là chung rượu hoặc ly rượu.
 
"Đắng cay này chén tiễn đưa
Uống đi, uống để say sưa ngập lòng"
(Chén rượu đôi đường - Vũ Hoàng Chương)
 
Nguyễn Trãi trong "Gia huấn ca", có đoạn:
 
Đua chi chén rượu câu thơ,
Thuốc Lào ngon lạt nước cờ thấp cao."
 
Khóc Dương Khuê-Nguyễn Khuyến:
 
"Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,
Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân"
 
Và:
 
“Vợ chồng chén tạc chén thù
Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi”
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)