Bắc
Ninh thi thoại của Nguyễn Khôi (Đình Bảng) đã tái bản nhiều lần ở Việt Nam, độc
giả trong và ngoài nước đánh giá cao giá trị nghệ thuật của tác phẩm này. Xin trích một
số chương giới thiệu cùng bạn đọc.
Bài
Thứ 10:
Tiếp theo các chí sỹ - thi nhân tham gia Đông Kinh
Nghĩa Thục, đầu thế kỷ 20 Bắc Ninh còn có nhiều thi nhân nổi tiếng.
Độc giả biết Ngô Tất Tố (1892-1954) qua Tiểu thuyết Lều chõng, Tắt đèn và phóng sự Việc làng, ký sự lịch sử Vua Hàm nghi với việc kinh thành thất thủ;
với kiến thức uyên bác, ông còn nổi tiếng trên nhiều lĩnh vực :
– Khảo cứu có “Phê
bình Nho học của Trần Trọng Kim”, khảo cứu về Lão tử, Mặc tử, Văn học Lý,
Văn học Trần, Hồ, Mạc, Tây Sơn...
– Dịch thuật có Đường
thi, Hoàng Lê nhất thống chí, Kinh dịch;
– Về thi ca, ông có bài thơ rất nổi tiếng viết khoảng
năm 1929 (Trên báo Thần Chung Sài Gòn):
NGHE GÀ GÁY CẢM HOÀI
Tiếng
gà xao xác giục bên đường
Trên
gối xui người dạ ngổn ngang
Ngày
tháng mài mòi đôi má trắng
Nước
non đeo nặng tấm gan vàng
Tánh
chim mỏi cánh bay về tổ
Kiếp
ngựa tù chân lại nhớ đàng
Thôi
cái cuộc đời còn thế thế
Làm
trai chi giữa gốc tre làng
Thơ của một vị túc nho, nhưng không hủ nho. Bình cũ rượu
mới. Một nửa là rượu nhà quê làng Cói, còn một nửa là rượu Hà Thành.
Đến Phong trào thơ mới (1930-1945), đất Bắc Ninh lại
xuất hiện hai nhà thơ lừng tiếng Thế Lữ và Đoàn Phú Tứ.
Thế Lữ (1907-1989) quê Phù Đồng (nơi có đền thờ Phù Đồng
Thiên Vương – Tháng Gióng).
Theo Hoài Thanh thì: “Độ ấy thơ mới vừa ra đời. Thế Lữ như vầng sao đột hiện ánh sáng chói
khắp cả trời thơ Việt Nam”. Đó là “cái
công Thế Lữ đã dựng thành nền thơ mới ở xứ này. Thế Lữ không bàn về thơ mới,
không bênh vực thơ mới, không bút chiến, không diễn thuyết. Thế Lữ chỉ lặng lẽ,
chỉ điềm nhiên bước những bước vững vàng, mà trong khoảnh khắc cả hàng ngũ thơ
xưa phải tan vỡ”. Mặc dù bước sau Phan Khôi, nhưng Thế Lữ là nhà thơ đi đầu
xuất sắc nhất của phong trào thơ mới. Thế Lữ là “ông Hoàng” của thời đại thơ ca mới.
Cho đến hôm nay, thì quê hương Bắc Ninh thân yêu vẫn
hiện lên trong tâm trí ta một cái gì rất Việt Nam (xứ Giao Chỉ ngày xưa và Bắc
Ninh đương đại) để ta yêu dấu đến nao lòng xứ sở miền quê quan họ này:
Sáng
hôm nay sương biếc toả mờ mờ
Như
hương khói đượm đầu cau, mái rạ
Với Thế Lữ thể thơ 8 chữ đã trở thành thể tiêu biểu của
thơ mới. Đó là thể thơ ưu việt bởi tính chất gẫy gọn sinh động và đầy hình tượng
hiện đại, đánh dấu một bướcphát triển nhảy vọt của tư duy thơ Việt nam:
Nhớ
cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Với
tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi…
Thế Lữ chủ trương dùng thơ ca để phụng sự cái đẹp của
thế giới, của con người và tình yêu, phải chăng đó cũng là cái đẹp khuynh thành
của Bà Chúa Chè, hoà nhịp với văn mạch dân tộc ở chặng đường tuyệt vời hứng khởi?
Bắc Ninh còn có Tuấn Đô Đoàn Phú Tứ (1910-1989). Ông
có thi phẩm bất hủ Màu Thời Gian, đồn
rằng để tặng một giai nhân là con gái nhà văn Nguyễn Văn Vĩnh (Nàng là em nhà
thơ Nguyễn Nhược Pháp ?).
Bài thơ chỉ có 18 câu với 101 chữ của một tình yêu đơn
phương, viết như thể không đâu vào đâu mà đủ cả nhạc, hoạ, thơ:
Sớm
nay tiếng chim thanh
Trong
gió xanh
Dìu
vương hương ấm thoảng xuân tình.
Từ ngàn năm nồng ấm, ta (như Hoàng Đế) lặng dâng Nàng
(phi tần của ta) cả “Trời mây phảng phất
nhuốm thời gian”. Lãng mạn và phi thường quá, trên cả tầm hoàng tử yêu công
chúa. Bởi thế thời gian mới có Màu và có Hương. Và cho dù như Hạng Vũ - Ngu Cơ,
Đường Minh Hoàng - Dương Quý Phi, Trịnh Sâm - Đặng Thị Huệ, Quang Trung - Ngọc
Hân… thì tình một thủa còn hương, bởi vì “hương
thời gian thanh thanh, màu thời gian tím ngát” kia mà.