SƠ LƯỢC TRÀ KINH CỦA LỤC VŨ
Ở phần trên có liên hệ đến Lục Vũ và tác phẩm
danh tiếng của ông: Trà Kinh (Kinh thư của
Trà), ông đã định thức hóa Pháp điển về Trà. Ta thử xem sơ lược về Trà
Kinh.
1. Tiểu sử Lục Vũ
Lục Vũ (733–804), đời Đường, tác giả cuốn Trà Kinh, người đất Cảnh Lăng, Hồ
Bắc; theo bản đồ thì cặp sát Tứ Xuyên và Quý Châu (lúc đó thuộc Nam Chiếu/ Đại
Lý).
Lục Vũ, tự là Hồng Tiệm, vốn là một đứa trẻ mồ côi, được
một thiền sư tên là Thái Chúc ở Hồ Bắc nhận nuôi. Thiền sư này vốn là một người
hâm mộ và sành điệu trà đúng với truyền thống Thiền thời đó. Sáu năm trời Lục
Vũ lưu ngụ tại thiền viện Long Vân, thời gian này ông được chỉ dạy nhiều về
cách pha chế và thưởng thức trà. Tuy nhiên bẩm tính của Lục Vũ thích Nho giáo
hơn là Thiền học nên thường bị sư ông trách phạt; cuối cùng không kham nổi Lục
Vũ bỏ trốn theo một gánh hát. May sao đến năm 14 tuổi Lục Vũ gặp được một hoàng
thân; ông này nhìn ra tư chất của Lục Vũ và có nhiều giúp đỡ. Sau loạn An Lộc
Sơn, Lục Vũ lui về ẩn dật, kết bạn với nhiều văn nhân và cho ra đời cuốn Trà
Kinh.
2. Trà Kinh
Trà Kinh gồm 3 quyển, chia làm 10 thiên, mỗi thiên đi
vào một nội dung: Nhất chi nguyên: nói về nguồn gốc cây chè; Nhị chi cụ: nói về
15 công cụ trồng chè, hái chè, chế biến chè; Tam chi tạo: nói tiêu chuẩn, yêu cầu
khi chế biến trà; Tứ chi khí: giới thiệu 25 dụng cụ pha trà; Ngũ chi chủ: bàn về
cách pha trà; Lục chi ẩm: nói về thú uống trà; Thất chi sử: ghi chép các trà
nhân, trà thoại; Bát chi xuất: nói về các vùng trà; Cửu chi lược: nói về giản
lược hoá một số khâu trong chế biến trà; Thập chi đồ: nói về các tranh ảnh vẽ về
trà.
- Chương tư dành riêng để liệt kê và miêu tả hai mươi bốn thứ "trà khí", bắt đầu từ cái lò ba chân cho đến cái tủ tre để đựng những dụng cụ ấy.
- Trong chương thứ năm, Lục Vũ trình bày phương pháp nấu
trà. Trừ muối, ông bỏ hết các thứ gia vị khác. Ông cũng đề cập tới vấn đề mà
người ta đã bàn đến rất nhiều là vấn đề chọn nước và mức độ đun nước sôi. Theo
ông thì nước sơn tuyền tốt nhất, rồi đến nước sông, và sau chót nước các nguồn
khác. Có ba độ nước sôi: độ thứ nhất, khi có những bọt nho nhỏ như mắt cá bơi
trên mặt nước; độ thứ hai, khi bọt nước trông giống như những hạt châu bằng pha
lê lăn đi trong suối; độ thứ ba, khi sóng nước sủi lên sùng sục trong ấm. Người
ta đem Trà bánh hong trước bếp lửa cho đến khi mềm ra như cánh tay con nít, rồi
đặt giữa hai tờ giấy thật tốt, nghiền vụn ra. Khi nước sôi ở độ thứ nhất thì bỏ
muối vào, ở độ thứ nhì thì bỏ trà. Đến độ sôi thứ ba thì đổ một thìa nước lã
vào ấm để "trấn" trà và làm cho "nước hồi phục lại nguyên
khí". Rồi người ta rót trà ra chén dể uống. Ôi cam lộ! Những chiếc lá nhỏ
mong manh treo lên như những đám lân vân trên nền trời thanh quang, hoặc nổi vật
vờ như những đóa sen trên dòng thủy lục.
Chính về món đồ uống này mà Lỗ Đồng, một thi nhân đời Đường đã viết: "Chén thứ nhất dấp ướt môi và cổ họng; chén thứ hai phá tan nỗi cô quạnh của ta; chén thứ ba thấm vào lòng ruột khô khan của ta và kiếm ra được năm ngàn cuốn biểu ý văn tự kỳ dị. Chén thứ tư làm cho ta dâm dấp mồ hôi, - bao nhiêu những điều tà ác ở trên đời đều tiết ra khỏi lỗ chân lông ta. Uống đến chén thứ năm, lòng thấy lâng lâng thanh tịnh; chén thứ sáu chiêu vời ta tới cõi bất tử. Chén thứ bảy - a, nhưng ta không thể nhắp hơn được nữa! Ta chỉ thấy luồng gió lạnh thổi phồng cánh tay áo ta lên thôi, bồng Lai Sơn ở đâu? Thôi hãy để cho ta cưỡi ngọn gió mát này bay đi đến đó cho xong"- như đã biết ở phần trên.
- Chương thứ mười trà đồ, tức đem chín mục trên chép ra lụa trắng treo lên, để mục kích mà hiểu rành rọt được trà vậy.
Cuốn Trà Kinh là cuốn sách Bách khoa toàn thư về chè
lâu đời nhất từ đời nhà Đường và có ảnh hưởng sâu xa, rộng lớn đến các đời sau
này. Người Trung Quốc gọi Lục Vũ là Trà Thánh, và ông được thờ như vị thần giám hộ của các nhà buôn
trà. Hiện nay, tại quê hương Lục Vũ, nhân dân đã xây dựng một nhà bảo tàng kỷ
niệm Lục Vũ, để ghi nhớ đến người đã có cống hiến lớn cho văn hoá và lịch sử chè
Trung Quốc. Ngoài ra còn dựng một tượng đồng Lục Vũ đang ngồi uống một chén chè
tại quê hương Thiên Môn của ông.
CÁC HÌNH THỨC TRÀ
1. Đoàn Trà
Đoàn trà hay trà bánh: Là khối nguyên lá hay đã xay nhỏ
nén lại. Lá trà sau khi thu hoạch xay ra hay để nguyên rồi đem hấp chín, sau đó
cho vào khuôn ép (có lò sản xuất ép khuôn mang dấu hiệu riêng của mình). Nếu lá
trà xay thành bột, người ta hồ thêm bột gạo rồi mới ép. Cuối cùng đem sấy cho
khô. Trà bánh là nguyên liệu cho nhiều loại thức uống như trà sữa của Mông Cổ
và trà bơ của Tây tạng.
Thời Lục Vũ - thời Đường, người ta uống theo lối Đoàn Trà thô sơ: Trà khô được vo tròn thành bánh, trước lúc uống trà phải mang bánh trà ra hong trước bếp cho mềm trà, rồi đặt giữa hai tờ giấy sạch mà nghiền vụn ra. Chờ nước vừa sôi thì bỏ muối vào, chờ nước sôi thêm một lúc thì mới mang trà đã nghiền mà bỏ vào. Nước sôi sùng sục như giận dữ là lúc quan trọng nhất; cần phải bỏ vào lúc ấy một thìa nước lạnh gọi là để trấn trà, và là phục hồi tính của nước, tức là nguyên khí. Sau đó mới mang pha ra để uống.
2. Mạt trà
Mạt trà hay trà bột.
Đến đời Tống (962-1274) lối uống trà của Lục Vũ tức
Đoàn Trà đã được bỏ đi để uống theo lối Mạt Trà- Lối nầy được gọi là đệ nhị trà
phái. Trà được bỏ vào cối đá nghiền thành bột rồi mang đặt vào chén, đổ nước thật
sôi, quấy đều bằng một chiếc "trà tiển" - thanh quậy trà- là
dụng cụ hình như một cái chổi bằng tre, vót thật khéo, chọn tre tốt; một
đầu chẻ tách ra thành nhiều que như que tăm dài, một đầu không chẻ để làm cán.
Tiển là để chùi nồi, chùi ấm như ta vẫn thấy, nhưng đây cũng là một loại
tiển được vót công phu hơn, thanh tao hơn đặc biệt để quậy trà.
Người Nhật và lối Trà Đạo của họ là lối uống theo nghi thức của đệ nhị trà phái thời Tống nầy. Mạt trà là loại bột trà xanh dùng trong nghi lễ trà đạo của Nhật bản, có màu xanh lục và mùi thơm tự nhiên của trà. Mạt trà thường cao giá hơn các thứ trà khác và có lẽ hiện nay ngoài Nhật Bản khó tìm nơi nào có xưởng sản xuất loại trà này. Hình thức trà này có từ đời nhà Tống, truyền qua Nhật và có liên quan đến Thiền tông.
3. Yêm trà hay Tiễn trà
Yêm trà còn gọi là tiễn trà hay trà ngâm, là loại trà
ngày nay đang dùng. Loại trà này ra đời do Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương (trị
vì 1368-1399) người sáng lập ra nhà Minh, quyết định bỏ hẳn lối sản xuất trà
bánh/ trà ép khuôn và trà bột vì quy trình sản xuất các loại trà này đòi hỏi rất
nhiều thời gian và công sức, thay thế vào đó là yêm trà. Sự ra đời loại
trà này làm phát triển ngành gốm sứ phục vụ việc uống trà - trà cụ: Quyết định
dùng trà ngâm/ yêm trà là động cơ thôi thúc các nghệ nhân lò Cảnh Đức Trấn,
tỉnh Giang Tây và lò Yixing, tỉnh Giang Tô vẽ ra nhiều kiểu ấm và chén tinh xảo
cho cách thức uống trà mới. Trà bột nhường chỗ cho trà có dạng lá tự nhiên và
có cách chế biến như ngày nay. Đó là những lá trà phơi sấy khô, có thể ướp
hương hay không, hãm với nước nóng mà dùng.
Loại hình trà ngâm có rất nhiều chủng loại và mỗi chủng
loại có nhiều danh trà khác nhau. Hiện nay người ta lan truyền 10 loại đệ nhất
danh trà Trung Hoa (dĩ nhiên không chính thức ) là: Tây Hồ Long Tỉnh của Hàng
Châu, Đỗng Thính Bích Loa Xuân của Giang Tây, An Khê Thiết Quan Âm của Phúc Kiến,
Hoàng Sơn Mao Phong của An Huy, Quân Sơn Ngân Châm của An Huy, Kỳ Môn Hồng Trà
của An Huy, Vũ Di Nham Trà của Phúc Kiến, Lục An Qua Phiến của An Huy, Tín
Dương Mao Tiêm của Hà Nam, và Đô Vân Mao Tiêm của Quỳ Châu. Chúng ta sẽ bàn
vài danh trà tiêu biểu ở phần dưới.
Phương pháp dùng tiễn trà, trà ngâm/ hãm trong nước
sôi, của hậu đại Trung Hoa tương đối là mới đối với Nhật Bản, vì mãi giữa thế kỷ
mười bảy người Nhật mới biết đến phương pháp này.
(Còn tiếp nhiều kỳ)
Nguyên Lạc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét