Sau mùa An Cư Kiết Hạ năm nay, Phật lịch 2564 (2020),
Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước được đón nhận lời pháp thoại của Thầy Tuệ
Sỹ qua Thư Khánh Tuế đầy tâm huyết trước thực trạng “tình đời và lẽ đạo” hiện nay của Đạo Phật Việt Nam với hai hình thức
tổ chức giáo hội song hành: Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN)
và Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (GHPGVN).
Người viết bài này xin được tô “đậm nét chữ đứng” tất cả các câu chữ trích dẫn trực tiếp từ Thư
Khánh Tuế của Thầy Tuệ Sỹ.
Trên nguyên tắc “lẽ
đạo” thì hàng Phật tử tại gia, dẫu là cư sĩ, trí thức, thiện nam tử - thiện
nữ nhơn… ngoài chư tăng ni đều không được trực tiếp bàn đến những giáo chỉ,
giáo lệnh, giáo thư luân lưu trong hàng giáo phẩm thuần tăng. Nhưng tự tiêu đề,
Thư Khánh Tuế là một bức thư nói lên lời chúc mừng: “Cùng chung niềm vui của bốn chúng, nương theo uy đức Tăng-già” mà
Thầy Tuệ Sỹ đã nêu lên trong phần mở đầu của bức thư, nên những dòng viết sau
đây xin được xem như chỉ là sự góp tiếng khiêm cung chúc mừng Khánh Tuế.
Chúc
mừng và tìm hiểu
Trước hết, mùa An Cư Kiết Hạ năm nay, khung thời gian
trùng khớp với thời điểm cách ly mùa đại dịch Covid-19 với gần 30 triệu người bị
lây nhiễm với gần 1 triệu người tử vong với hơn 200 quốc gia trên toàn thế giới
thọ bệnh. Nhưng sau mùa An Cư năm nay, gần bốn vạn Tăng Ni trong và ngoài nước
đều được pháp thể an khang, đạo tâm kiên cố là được tưới tẩm nguồn pháp lực độ
trì của hồng ân Tam Bảo như lời Thầy Tuệ Sỹ chúc mừng:
“Tôi
kính gởi đến Chư Tôn đức lời chúc mừng đã hoàn mãn ba tháng tĩnh tu trong nguồn
Pháp lạc tịnh diệu, phước trí tư lương sung mãn.”
Khoảng 3.500 chữ với văn phong hàn lâm và ngôn ngữ
hùng văn, nội dung của Thư Khánh Tuế có thể ghi đậm nét 4 điều:
Thứ
nhất: Đạo Phật Việt Nam đã và đang đối mặt trước những thử
thách, giông bão của thời đại trong nửa thế kỷ qua. Tác động bởi hoàn cảnh chao
đảo và tình thế áp đảo do bốn lực tác động đồng thời từ trên xuống như quyền lực
chính trị một chiều; từ phải qua như phẩm chất tín tâm và sống đạo thoái trào;
từ trái lại như tổ chức phân hóa giữa cảnh sống phân ly và từ trong ra như cư
sĩ rối đạo và bất ổn nội tình:
“bởi
các thế lực chính trị quốc gia và quốc tế đã thông qua một số bộ phận cư sĩ
khuynh loát Giáo Hội để tập hợp quần chúng nhân dân mà đại bộ phận là Phật tử
phục vụ cho tham vọng thống trị”.
Thứ
hai:
Tình trạng phân hóa nội bộ ngày càng nghiêm trọng. Giáo hội PGVN trong nước:
“Giáo
hội ấy, được phép rao giảng Giáo lý nhưng phải phù hợp với định hướng xã hội chủ
nghĩa. Một định hướng mơ hồ trên cơ sở triết học biện chứng duy vật sử quan và
cũng mơ hồ không kém khi áp đặt vào lịch sử Việt Nam, trong quá khứ cũng như hiện
tại.” Giáo hội PGVNTN trong và ngoài nước: “Trong tình trạng hận thù dân tộc kéo dài từ
cuộc chiến huynh đệ tương tàn chưa nguôi, đất nước tuy hòa bình nhưng nhân tâm
phân ly, xã hội phân tán, những năm tháng tủi nhục của các Phật tử trong các
lao tù chưa được xóa nhòa, và nỗi đau của hàng vạn đồng bào lênh đênh trước
sóng dữ và một số bị chôn vùi trong biển cả chưa được xoa dịu, đã nhanh chóng
tác động lên Giáo Hội vừa phục hồi, nghi kỵ và mâu thuẫn bắt đầu xuất hiện, cơ
cấu Giáo Hội bắt đầu có dấu hiệu phân hóa từ hàng lãnh đạo; nguy cơ sụp đổ là
điều khó tránh”.
Thứ
ba:
Tình hình đội ngũ hộ pháp truyền thống bên cạnh Tăng già như cư sĩ, trí thức Phật
từ trong cũng như ngoài nước đang mỏng dần, không còn phát huy tác dụng tích cực
bởi tác động của hoàn cảnh phức tạp và tâm lý lạc lõng, mơ hồ:
“Trí
thức Phật tử trong nước theo con số thống kê do Nhà nước công bố chưa đầy 5% so
với gần 100 triệu dân số của cả nước; với con số thống kê chính thức ấy, trí thức
Phật tử Việt Nam chưa bằng phân nửa tổng số dân của Sài Gòn hiện nay, thế thì
tiếng nói của trí thức Phật tử trong các sự nghiệp văn hóa, giáo dục, kinh tế,
xã hội, cũng chỉ là những tiếng nói lạc lõng…
Bộ
phận trí thức Phật tử lưu vong Hải ngoại, có đủ điều kiện để thâu thái những
tinh hoa trong các nền văn minh hiện đại, nhưng phần lớn đó lại là những người
đã từng chịu khổ nhục trong các lao tù, hận thù và nghi kị vẫn còn là chướng ngại
khó vượt qua. Các thế hệ tiếp theo trưởng thành và được giáo dục trong các nền
giáo dục tiến bộ nhưng số lớn biết ít về lịch sử dân tộc, cho nên ý thức về sự
tồn vong suy thịnh của dân tộc đôi khi cũng khá mơ hồ.”
Thứ
tư:
Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ đã chính thức tiếp nhận sự ủy thác của Hòa thượng Đệ
ngũ Tăng thống Thích Quảng Độ kế thừa vai trò lãnh đạo GHPGVNTN. Thầy Tuệ Sỹ đã
xác định vai trò lãnh đạo GHPGVNTH:
“Tôi
được ủy thác nhiệm vụ kế thừa, không phải kế thừa một chức vụ cao cả trong hàng
giáo phẩm, mà chính xác là kế thừa tâm nguyện chưa được viên thành của Hòa Thượng
Trưởng lão Thích Quảng Độ, muốn thấy uy đức Tăng-già được thể hiện trong bản thể
thanh tịnh hòa hiệp, để từ đó phục hồi và kiện toàn cơ chế Giáo Hội.”
Và Thầy khể thủ minh nhiên thọ nhận:
“Trong
hiện tại, với di chúc ủy thác của Đức Đệ Ngũ Tăng Thống, trông lên Tổ đức uy
nghiêm, vô khả nại hà, tôi cúi đầu lãnh thọ.”
Tuy Thầy không minh xác chức vụ – và có lẽ đối với Thầy
thì mọi danh tướng và chức vụ đều chỉ là những khái niệm hư danh phù vân –
nhưng nếu hình thái cấu trúc cần thiết đòi hỏi một chức vụ thống lãnh hàng giáo
phẩm thì Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ hiển nhiên là Đệ lục Tăng Thống do chính Hòa
thượng Đệ ngũ Tăng Thống đã tôn cử và trao truyền.
Suy
niệm về hiện tình Đạo Phật Việt Nam
Là một Phật tử 74 tuổi, theo Mẹ đi chùa từ tuổi Oanh
Vũ, sống thuần thành với đạo, kẻ viết những dòng nầy vẫn chung bước với thế hệ
đàn anh và nắm tay thế hệ đàn em đi qua những nẻo đường của dân tộc và đạo pháp
trên quê hương cũng như ở xứ người gần suốt cả đời mình. Qua một số bài viết bằng
tiếng Việt, tôi đã góp ý, chia sẻ những cảm tưởng và suy nghĩ của mình với nhãn
quan của một người nhìn từ xa nhưng thật sự là kẻ ở trong cuộc.
Trong bài viết tháng 3-2020 với nhan đề:
Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Sẽ Về Đâu
là một cách đặt vấn đề chủ quan; và bài viết tháng
5-2020 với nhan đề:
Đạo Phật Việt Nam Đang đối diện với Giấc Mơ Trường Sơn
hay Giấc Mộng Đêm Hè.
là một nghi vấn khách quan.
Với suy niệm về hiện tình đạo Phật, tôi tập trung nghĩ
đến dòng sinh mệnh của đạo Phật Việt Nam trước tình hình quá phức tạp đã kéo
dài và trở nên ngày càng trầm trọng trong vòng ba, bốn thập niên vừa qua, kể từ
khi giáo hội Phật Giáo Việt Nam, thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam thuộc
Nhà Nước được thành lập năm 1981. Một đạo Phật có hai Giáo Hội song hành trong
một thể chế chính trị đặt tôn giáo vào hàng đoàn thể quần chúng đã tạo ra một
thực tế mâu thuẫn và xung đột ngấm ngầm hay công khai nhưng chắc chắn là theo
khuynh hướng loại trừ hơn là hỗ trợ nhau. Trong đó giáo hội PGVNTN cố vươn lên
thế độc lập với nhà cầm quyền nên đã bị và tự đặt mình vào thế đối lập.
Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ vừa là một nhà bất đồng chính
kiến với nhà cầm quyền đương nhiệm; đồng thời, Thầy là một bậc tôn túc trong
hàng giáo phẩm danh tăng của đạo Phật Việt Nam hiện nay mà Tăng già, Phật tử, đại
chúng và giới cầm quyền trong nước cũng như ngoài nước hiện nay đều biết tiếng
và nể trọng. Phật tử Việt Nam rất tự hào có được một biểu tượng nổi bật về cả
tài năng cùng phẩm hạnh như Thầy trong hàng chư tôn thạc đức. Thật đáng khâm phục
khi Thầy Tuệ Sỹ tự xác định tầm mức và giới hạn trong vai trò lãnh đạo giáo hội
của chính mình:
“Bản
thân tôi trước sau vẫn chỉ là nhà giáo dục, sự nghiệp suốt đời chỉ giới hạn
trong những việc trước tác, phiên dịch kinh điển. Những khi cần đến kiến thức
hàn lâm, Chư tôn Trưởng lão triệu tôi đến để thông diễn tôn ý cho bốn chúng đệ
tử. Khi không cần thiết, tôi được phép trở về bản vị trong các giảng đường và
thư viện.”
Nhưng trước những yêu cầu cấp thiết của hoàn cảnh phân
hóa và thách đố gay gắt của thời đại mà đạo Phật Việt Nam đang đối diện, vai
trò lãnh đạo của Thầy đòi hỏi thêm bên cạnh nội lực thuần học giả và nhà giáo dục,
còn cần có đủ hùng lực tự thân và đảm lược chỉ huy để đối trị và hóa giải với
những vấn đề chia rẽ, áp bức, phân tranh, âm mưu, tha hóa, phá hoại… rất nhiêu
khê và ma quái từ bên ngoài lẫn bên trong mà Thầy đã thấy rõ và lên tiếng trong
Thư Khánh Tuế.
Một tăng tài kiên tâm và có kinh nghiệm ứng xử như
ngài Quảng Độ còn phải thúc thủ buông tay mà Thầy Tuệ Sỹ đã chứng kiến:
“Hòa
Thượng Trưởng lão Thích Quảng Độ, trong cương vị Tăng Thống GHPGVNTN, tự nhận
trách nhiệm của mình trước lịch sử, phương tiện tùy nghi vô thi bất khả, đã
đình chỉ tất cả mọi sinh hoạt Phật sự của Viện Hóa Đạo, và chỉ còn mình Ngài đứng
đầu Viện Tăng Thống, ngõ hầu chấm dứt những tranh chấp vì hư danh và địa vị
không tưởng làm hoen ố bản thể thanh tịnh hòa hiệp của Tăng-già, gây nên những
con rối trong cộng đồng bốn chúng đệ tử đồng tu.”
Cận cảnh nầy trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay
làm cho sự quan ngại của đại chúng về vai trò khả thủ của Hòa thượng Tuệ Sỹ
trong nước càng dâng cao.
Là một nhân vật tôn giáo nổi tiếng đã từng bị chế độ kết
án tử hình, một học giả phủ nhận tính nhân bản của triết học Mác; phê phán sự
ngụy luận của duy vật biện chứng và lột mặt nạ ảo tưởng giả tạo về sự phát triển
hình tướng của Phật giáo Việt Nam trong nước:
“Phật
giáo Việt Nam với những tiến bộ vật chất chưa từng có, nếu có cũng chỉ là hiện
tượng của một cơ thể béo phì, ám ảnh bởi những âm hồn ma quái dạo khắp phố phường,
không đủ khả năng dự phần phát triển văn hóa, giáo dục.”
Khởi từ lời phán quyết nghiêm khắc nầy và những diễn
biến từ quá khứ, Thầy Tuệ Sỹ trở thành một nhân vật lãnh đạo Phật giáo đối lập
với nhà cầm quyền Việt Nam. Nhất là khi Thầy trở thành Đệ lục Tăng Thống
GHPGVNTN thì sự đối lập sẽ tăng tốc từ kín đáo theo dõi thành đối kháng quyền lực.
Điều gì sẽ xảy ra trong một cơ chế kiểm soát Phật giáo gắt gao với sự cột buộc
chặt chẽ của Mặt Trận TQVN, Ban Tôn giáo Nhà Nước, công an chìm nổi và vô vàn
những thòng lọng vô hình đầy hầm bẫy chung quanh Thầy. Trong một cái khung sắt
vô hình nhưng siết chặt như thế, Phật tử Việt Nam khắp năm châu đang hướng mắt
về Thầy với lòng mong ước và tâm thành cầu nguyện Thầy sẽ ứng dụng sự quyền biến
linh động để giữ vững vai trò lãnh đạo trực tiếp hay gián tiếp GHPGVNTH trong
cũng như ngoài nước.
Đức khiêm cung của tinh thần kẻ sĩ với đạo lý trung
nghĩa truyền thống còn được Thầy Tuệ Sỹ vận dụng giữa một cơ chế xã hội chuyên
thi triển ngoại hình thời nay sẽ là một đức hạnh thù thắng:
“Tôi được ủy thác nhiệm vụ kế thừa, không
phải kế thừa một chức vụ cao cả trong hàng giáo phẩm, mà chính xác là kế thừa
tâm nguyện chưa được viên thành của Hòa Thượng Trưởng lão Thích Quảng Độ, muốn
thấy uy đức Tăng-già được thể hiện trong bản thể thanh tịnh hòa hiệp, để từ đó
phục hồi và kiện toàn cơ chế Giáo Hội.”
Lần giở đọc đi đọc lại Thư Khánh Tuế trước đèn, tôi thật
tâm đắc và bội phục cách trình bày, đánh giá tình hình, đặt vấn đề cũng như
khuynh hướng giải quyết vấn đề đậm tinh thần vương đạo lý tưởng theo chánh pháp
về hiện trạng Đạo Phật Việt Nam nói chung và các giáo hội Phật giáo nói riêng.
Cùng chung một nỗi niềm với nhiều cư sĩ và Phật tử qua
phản ứng tức thời đối với lời xác định vai trò lãnh đạo giáo hội PGVNTN trước mắt
của Thầy, đó là sự trăn trở, lo lắng về nỗ lực khai thông sự bế tắc hiện tiền của
Giáo Hội khi được biết tôn ý của Thầy là:
“Tuy
nhiệm vụ kế thừa này được xem là cao cả nhưng trong thực tế chỉ có vai trò liên
lạc, chuyển tải tôn ý giữa Chư Tôn đức, trong nước và Hải ngoại đang hoằng hóa
tại các châu lục khác nhau, trong các quốc gia có những dị biệt về pháp luật, về
hình thái xã hội do truyền thống dị biệt. Sự chuyển tải chư tôn ý này cũng cần
đến kiến thức hàn lâm từ Kinh-Luật-Luận để không truyền đạt một cách sai lầm nội
dung của chư tôn ý.”
Giữa lúc luật lệ khắt khe về An Ninh Mạng của Nhà cầm
quyền đã đặt tất cả những trang mạng xã hội, những thông tin xuất nhập toàn cầu
ra vào Việt Nam trong tầm ngắm của hàng hàng lớp lớp chuyên viên thanh sát và bức
tường lửa. Dè dặt và hòa hoãn như ngài Đệ Ngũ Tăng thống Thích Quảng Độ còn phải
bó tay “vô thi bất khả” thì kế sách
khả thi của một nhân vật lãnh đạo đối lập trong nước như Thầy Tuệ Sỹ có thể thực
hiện được khi Thầy khẳng định chỉ làm công việc đóng “vai trò liên lạc, chuyển tải tôn ý giữa Chư Tôn đức, trong nước và Hải
ngoại…”
Chúng tôi không có lý do chính đáng nếu vô cớ liều
lĩnh đi xa hơn về một tương lai gần hay xa của GHPGVNTN dưới sự lãnh đạo của
Hoà Thượng Thích Tuệ Sỹ. Dữ kiện chia sẻ và luận đàm trên đây đều là quá khứ.
Muốn bàn chuyện tương lai mà chưa qua lọt cánh cửa then gài của hiện tại thì sẽ
trở thành sự phỏng đoán vô căn cứ.
Với Phật sự đa đoan đã kéo dài qua nhiều thập niên nên
bước khởi đầu mang tính chất đột phá khai thông bế tắc là việc chấn chỉnh (chưa
dám nói đến chấn hưng là một kế sách quá to tát) GHPGVNTN. Đây là một nhu cầu cấp
thiết. Lời kêu gọi thiết tha của Hoà thượng Thích Tuệ Sỹ:
“Thỉnh
nguyện Chư Tôn Trưởng Lão cùng hòa hiệp thảo luận một số vấn đề, từ những nhu cầu
sinh hoạt thường nhật, tất yếu không thể tách ngoài các mối quan hệ xã hội mà bản
chất là hư danh và lợi dưỡng, nếu vượt quá giới hạn mà Đức Thích Tôn đã thi thiết,
sẽ dẫn đến, và thực tế như đang thấy, đã dẫn đến tình trạng mâu thuẫn, phân hóa
trong cộng đồng chúng đệ tử xuất gia, khiến cho những ai không tin Phật pháp lại
càng không tin, những ai đã tin thì tín tâm dao động và thoái thất.”
Tôi xin gõ vào im lặng để đọc bài kệ của Đạo Hạnh Thiền
Sư:
Có
thì có tự mảy may,
Khi
không cả thế gian này cũng không...
Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ đang “Có” một sự khởi đầu đơn thuần như đọc một câu kinh nhưng niềm hy vọng
đang dâng lên trong lòng mọi người và mọi người cũng là mỗi người Phật tử và bạn
đạo Việt Nam khắp thế gian.
Sacramento,
ngày trùng cửu vào Thu 9-9-2020
Trần Kiêm Đoàn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét