Nhà bình thơ Phạm Đức Nhì
Lời Nói Đầu
Nhận xét về vần luật trong Truyện Kiều dễ dẫn đến
tranh luận. Mà đề tài tranh luận ngoài chuyện đúng sai có tính học thuật cũng
thường khi liên quan đến độ khả tín của văn bản cũng như uy tín của người khảo
dị và hiệu đính. Bài viết này dựa vào 2 bản nôm Truyện Kiều Liễu Văn Đường (Kiều
1866 và Kiều 1871) được ông Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và khảo dị. Ông Nguyễn
Quảng Tuân cũng kết hợp với 3 bản nôm khác - Kiều 1870, Kiều 1872 và Kiều 1902
- để cho độc giả một “dụng cụ” tra cúu rất tiện lợi, có thể so sánh từng câu giữa
5 bản Kiều”.
Ngoài ra ông cũng có trong tay bản Kiều 1874 do Đàm
Quang Hưng sưu tầm nhưng chưa kết hợp với 5 bản Kiều trên.
Sau đây là danh sách 6 bản nôm Truyện Kiều được làm tư
liệu.
(http://www.nomfoundation.org/nom-project/tale-of-kieu/tale-of-kieu-version-1866?uiLang=vn)
Kiều 1866
Bản Liễu Văn Ðường—Nghệ An
Nguyễn Quảng Tuân—Phiên âm - khảo dị
Nxb Văn học & Trung tâm Nghiên cứu Quốc học (2004)
Kiều 1870
Bản Kinh đời Tự Ðức
Nguyễn Quảng Tuân—Phiên âm - khảo dị
Nxb Văn học & Trung tâm Nghiên cứu Quốc học (2003)
Kiều 1871
Bản Liễu Văn Ðường
Nguyễn Quảng Tuân—Phiên âm - khảo dị
Nxb Văn học & Trung tâm Nghiên cứu Quốc học (2002)
Kiều 1872
Tư liệu Truyện Kiều: Bản Duy Minh Thị
Nguyễn Tài Cẩn (Moskva)
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội (2002)
Kiều 1874
Tăng Hữu Ứng chép tay: Tự Ðức Giáp Tuất
Ðàm Quang Hưng sưu tầm, Huế
Bs Nguyễn Huy Hùng—Texas, Mỹ (2002)
Kiều 1902
Bản Kiều Oánh Mậu
Sưu tầm, khảo chú & chế bản Nôm: Nguyễn Thế &
Phan Anh Dũng
Hiệu đính chữ Nôm: Nhà giáo Ưu tú Nguyễn Đình Thảng.
Nxb Thuận Hoá — Huế 2004
Tóm
Tắt Luật Bằng Trắc Của Lục Bát Chính Thống
Mời độc giả đọc đoạn thơ lục bát dưới đây:
Hôm
qua chồng em về nhà
Dòm
lui dòm tới rồi ra ngoài đường
Dáng
đứng thiểu não đáng thương
Muốn
gọi, chợt nghĩ đến chàng lại thôi
Cặp lục bát đầu có 3 chữ đen in đậm (chữ thứ 6 câu lục,
chữ thứ 6 và chữ thứ 8 câu bát) vần bằng và chữ đỏ in đậm (chữ thứ 4 câu bát) vần
trắc. Mười chữ còn lại đều là vần bằng.
Cặp lục bát thứ hai cũng có 3 chữ đen in đậm (chữ thứ
6 câu lục, chữ thứ 6 và chữ thứ 8 câu bát) vần bằng và chữ đỏ in đậm (chữ thứ 4
câu bát) vần trắc. Mười chữ còn lại đều là vần trắc.
Chữ thứ 6 câu bát (ra) thanh ngang thì chữ thứ 8 câu
bát (đường) thanh huyền.
Chữ thứ 6 câu bát (chàng) thanh huyền thì chữ thứ 8 câu bát (thôi) thanh ngang
Chúng ta có thể rút ra kết luận ngắn gọn rằng: Để làm
thơ lục bát đúng luật chỉ cần:
1/ Chữ thứ 6 câu lục, chữ thứ 6 và chữ thứ 8 câu bát vần
bằng; chữ thứ 4 câu bát vần trắc. Mười chữ còn lại bằng trắc tự do.
2/ Chữ thứ 6 câu bát thanh ngang thì chữ thứ 8 thanh bằng
và ngược lại.
Luật
Bằng Trắc Trong Truyện Kiều.
Sau khi đã đọc kỹ từng câu trong 3254 câu của Truyện Kiều tôi nhận thấy tác phẩm được viết theo thể lục bát chính thống:
1/ Chữ thứ 4 của 1627 câu bát đều vần trắc.
2/ Chữ thứ 6 của 1627 câu lục đều vần bằng.
3/ Chữ thứ 6 và chữ thứ 8 của 1627 câu bát đều vần bằng.
4/ Trong cả 1627 câu bát, nếu chữ thứ 6 thanh ngang
thì chữ thứ 8 thanh bằng và ngược lại.
Nên có thể nói chắc rằng: Truyện Kiều tuân thủ luật bằng trắc rất nghiêm chỉnh.
Nhưng với vần thì lại là chyện khác. Trong thơ lục bát có 4 điểm cần lưu ý khi nhận xét về vần là lạc vận, vần nguyên chữ, “vần ngang câu bát” và vần quẩn (trở lại vần cũ chỉ sau một lần chuyển vận). Lạc vận được giới phê bình và thưởng thức thơ cho là lỗi – mà là lỗi nặng về kỹ thuật thơ. Còn vần nguyên chữ, “vần ngang câu bát” và vần quẩn chỉ được xem là sự “không khéo” của tác giả.
Trong bài này tôi chỉ bàn về lạc vận và vần nguyên chữ.
“Vần ngang câu bát” và vần quẩn sẽ đề cập đến ở bài sau.
Truyện
Kiều Có Câu Nào Lạc Vận Không?
Lạc vận là một lỗi nặng trong thơ lục bát. Với thơ lục
bát đương đại, một câu lạc vận là cả bài thơ “xấu mặt”. Đọc đi đọc lại Truyện
Kiều tôi thấy có một câu lạc vận và một nhóm 3 câu đặt ra một dấu chấm hỏi khá
lớn.
Một
vùng cỏ áy bóng tà
Gió
hiu hiu thổi một vài bông lau
(Câu 97 – 98)
“Tà” và “vài” lạc vận.
Nhận định này của tôi (trong một bài viết khác) – do
nguồn trích dẫn từ một văn bản chữ Việt - đã gặp sự phê phán của bác Vũ Nho (chủ
trang web Vũ Nho Ninh Bình). Trong bài viết này tôi đã “mượn” dụng cụ của ông
Nguyễn Quảng Tuân - so sánh từng dòng giữa các bản Kiều (chữ Nôm):
Kiều 1866
囂囂𠺙没𢽼𦰟𦰤
Gió
hiu hiu thổi một vài ngọn lau.
Kiều 1870
𩙍囂囂𠺙𬏓𦰟𦰤
Gió
hiu hiu thổi một và ngọn lau.
Kiều 1871
囂囂𠺙没𢽼𦰟𦰤
Gió
hiu hiu thổi một vài ngọn lau.
Kiều 1872
𩙌囂囂𠺙𠬠𬏓𦰟𦰤
Gió
hiu hiu thổi một và NGỌN lau.
Kiều 1902
𫗄休休𠺙𢽼芃𦰤
Gió hiu hiu thổi một và(i) bông lau
Trong bản Kiều 1902 hàng chữ Nôm viết là 𢽼 (vài) nhưng hàng chữ “quốc ngữ” ở dưới viết (lầm?) là “và”
Trong 5 bản Nôm của Truyện Kiều có đến 3 bản viết là “vài” - trong đó có bản cổ nhất 1986 (1). Thêm vào đó, đa số bản tiếng Việt trên Net cũng viết như vậy nên dù có ý kiến trái chiều, tôi vẫn nghiêng về phía chữ “vài” – nghĩa là cho rằng đây là 2 câu lạc vận.
Hơn nữa, đây đó trong Truyện Kiều có một số câu - ý
tương tự - cũng viết là “vài”:
Cỏ
non xanh tận chân trời,
Cành
lê trắng điểm một vài bông hoa.
(Câu
41-42)
Đã
không kẻ đoái người hoài,
Sẵn
đây ta kiếm một vài nén hương.
(Câu
91-92)
Thú
quê thuần hức bén mùi,
Giếng
vàng đã rụng một vài lá ngô.
(Câu
1593- 1594)
Lời
quê chắp nhặt dông dài,
Mua
vui cũng được một vài trống canh.
(Câu
3253-3254)
Ngoài ra, nói đến lạc vận, còn có 3 câu khác cũng khiến
tôi băn khoăn:
Lệnh
quan lại bắt ép duyên thổ tù.
Nàng
đà gieo ngọc trầm châu
Sông
Tiền Đường đó ấy mồ hồng nhan
(Câu
2962 đến 2964)
1/
“Châu” và “mồ” có lạc vận không?
Âu
– âu: Chính vận
Âu
– au: Thông vận gần
Âu
– ao: Thông vận
Âu
– êu: Thông vận
Âu
– eo: Thông vận xa
Âu
– yêu: Thông vận xa
Âu
– iu: Cưỡng vận
Âu
– ô: Lạc vận
Âu – u: Lạc vận
Dựa vào bảng “vần gần, vần xa” do chính mình tự lập để
“đo” độ ngọt của vần tôi cho rằng “châu” và “mồ” lạc vận.
2/
Còn “châu” và “tù” thì sao?
Theo bảng xếp hạng (dựa vào mặt chữ) thì “châu” và
“tù” lạc vận nhưng nó làm tôi nhớ tới mấy câu thơ trong Tiết Phụ Ngâm của
Trương Tịch
Quân
tri thiếp hữu phu
Tặng
thiếp song minh châu
Cảm
quân triền miên ý
Hệ
tại hồng la nhu
Một thầy giáo dạy Việt Văn cho biết là trong chữ Hán chữ “châu” cũng có thể được phát âm là “chu” nên ở đoạn thơ trên câu “Tặng thiếp song minh châu” không bị lạc vận. Nhưng Truyện Kiều viết bằng chữ Nôm nên tôi nghĩ việc phát âm “châu” thành “chu” chắc là không có. Tuy nhiên, khi phát âm vần “âu” (“â” ghép với “u”) âm vang của chữ “u” (trong “âu”) vẫn có dù rất nhẹ.
Theo tôi, câu này chưa đáng liệt vào loại lạc vận
nhưng ít nhất cũng nằm trên ranh giới giữa cưỡng vận và lạc vận.
Ngoài ra còn có một cặp lục bát khác:
Sượng
sùng đánh dạn ra chào
Lạy
thôi, nàng mới rỉ tai ân cần
trong đó “chào” với “tai” lạc vận rõ ràng, không phải
bàn cãi. Có đến 4 bản Kiều tiếng Việt (2) viết là “tai” nên tôi đã mạnh dạn lấy
làm thí dụ (về lạc vận) trong một bài viết khác. Sau này đối chiếu với 5 bản Kiều
chữ Nôm tôi mới thấy là mình sai; không phải sai về lập luận mà sai về nguồn
trích dẫn có độ khả tín quá thấp.
Đối chiếu với 5 bản Kiều chữ Nôm:
Kiều 1866
𥛉催娘買𠯇𢭂殷勤
Lạy
thôi nàng mới rỉ trao ân cần.
Kiều 1870
𥛉催娘買𠯇𢭂殷勤
Lạy
thôi nàng mới rỉ trao ân cần.
Kiều 1871
𥛉催娘買𠯇𢭂殷勤
Lạy
thôi nàng mới rỉ trao ân cần.
Kiều 1872
段催娘買𠯇𢭂慇懃
ĐOẠN
thôi nàng mới rỉ trao ân cần.
Kiều 1902
𥛉催娘買𠯇𢭂殷勤
Lạy
thôi nàng mới rỉ trao ân cần
Như vậy đúng ra phải viết là:
Sượng
sùng đánh dạn ra chào
Lạy
thôi, nàng mới rỉ trao ân cần
(Câu
1095-1096)
Đây không phải là 2 câu lạc vận.
Riêng điểm này tôi phải công nhận bác Vũ Nho đúng, tôi
sai. Xin cám ơn bác Vũ Nho đã chỉ điểm.
Tóm lại, trong 3254 câu của Truyện Kiều có 2 cặp lạc vận.
Nhận
Xét Về Vần Nguyên Chữ Trong “Truyện Kiều”
Chúng ta thử đọc đoạn thơ dưới đây:
KHÔNG
LÀ GIẤC MƠ
……………………..
Yêu
nhau thì phải nồng say
Trọn
đời suốt kiếp không thay đổi lòng
Cũng
không một dạ hai lòng
Đồng
cam cộng khổ vợ chồng bên nhau
……………………
Nguyễn
Thanh Phong, FB Lục Bát Việt Nam)
Thi sĩ Nguyễn Thanh Phong đã gieo vần “nguyên chữ” (lòng lòng) – hai chữ giống nhau như đúc. Gieo vần như vậy không sai luật nhưng nghe có “cái gì đó” không thuận tai.
Tôi tưởng nhận xét như vậy là do cách thưởng thức thơ
khó tính của mình, nhưng đọc chú thích của ông Nguyễn Quảng Tuân (phần dưới)
thì thấy rằng các cụ xưa cũng dị ứng với vần nguyên chữ như tôi.
So sánh hai câu 3089 và 3090 giữa các bản Kiều:
Kiều 1866
緣箕固負之情
Duyên
kia có phụ chi tình,
Kiều 1870
緣箕固負之命
Duyên
kia có phụ chi mình,
Kiều 1871
緣箕固負之情
Duyên
kia có phụ chi tình,
Kiều 1872
緣箕固負之𠇮
“Duyên kia có phụ chi MÌNH,
Kiều 1902
緣箕固負之命
Duyên
kia có phụ chi mình
Kiều 1866
麻算支挭鍾情爫𠄩
Mà
toan chia gánh chung tình làm hai?"
Kiều 1870
𦓡筭技梗鍾情爫𠄩
Mà
toan chia gánh chung tình làm hai?”
Kiều 1871
麻算支挭鍾情爫𠄩
Mà
toan chia gánh chung tình làm hai?”
Kiều 1872
麻筭支梗鍾情爫𠄩
"Mà
toan chia gánh chung tình làm hai?"
Kiều 1902
麻算𢫟挭鍾情爫𠄩
Mà
toan sẻ gánh chung tình làm hai”.
Thí dụ như câu “Duyên kia có phụ chi tình” (Liễu Vân Đường) thì ông Nguyễn Quảng Tuân chú thích như sau:
Hai bản Liễu Vân Đường (1866 & 1871) và Quan Văn
Đường (1874) (bản 1874 không nằm trong 5 bản đối chiếu) đều khắc là “tình”. Sở
dĩ có sự sửa chữa chữ “tình” ra chữ “mình” là để tránh trùng vần với câu dưới
cũng có chữ “tình”. Nhưng chữ “mình” đây có thể hiểu là “chúng mình” và câu thơ
cũng rõ nghĩa.
Vì thế, sau khi tra cứu kỹ, tôi đã không đưa 2 câu 3089 và 3090 vào danh sách các câu thơ “vần nguyên chữ” mà ông Nguyễn Quảng Tuân gọi là “trùng vần”. (2)
Sử dụng phương cách này tôi đã bỏ bớt mấy cặp có độ khả tín thấp khác trong một số bản chữ Việt trên Internet.
Như vậy, cả các cụ xưa và những người thưởng thức thơ
đương đại (trong đó có tôi) phần đông cho rằng tạo vần nguyên chữ trong thơ lục
bát là “không khéo”, là vụng - ngoại trừ trường hợp thật đặc biệt.
Theo sự sàng lọc của tôi (đối chiếu 5 bản Kiều chữ
Nôm) Truyện Kiều có 8 cặp lục bát vần nguyên chữ, xin được liệt kê dưới đây. (Thay
vì một cặp tôi trích cả 4 câu, mở rộng ngữ cảnh của đoạn thơ cho độc giả có chỗ
dựa để nhận định xem cái hay về ý tứ và nghệ thuật của đoạn thơ có bù được cái
vụng của cặp vần nguyên chữ hay không?)
1/
Vân
rằng: Chị cũng nực cười
Khéo
dư nước mắt khóc người đời xưa.
Rằng:
Hồng nhan tự thuở xưa
Cái
điều bạc mệnh có chừa ai đâu?
(105
đến 108)
2/
Lượng
xuân dù quyết hẹp hòi
Công
đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru?
Lặng
nghe lời nói như ru
Chiều
xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng
(345
đến 348)
3/
Nước
trôi hoa rụng đã yên
Hay
đâu địa ngục ở miền nhân gian
Khuyển
ưng đã đắt mưu gian
Vực
nàng đưa xuống để an dưới thuyền
(1705
đến 1708)
4/
Thấy
nàng mặt phấn tươi son,
Mừng
thầm được mối bán buôn có lời
Hư
không đặt để nên lời
Nàng
đà nhớn nhác rụng rời lắm phen
(2089
đến 2092)
5/
Tin
vào gởi trước trung quân
Từ
công riêng hãy mười phân hồ đồ
Một
tay gây dựng cơ đồ
Bấy
lâu bể Sở sông Ngô tung hoành!
(2461
đến 2464)
6/
Giác
Duyên nghe nói mừng lòng,
Lân
la tìm thú bên sông Tiền Đường
Đánh
tranh chụm nóc thảo đường
Một
gian nước biếc mây vàng chia đôi
(2695
đến 2698)
7/
Thẩn
thờ lúc tỉnh lúc mê
Máu
theo nước mắt hồn lìa chiêm bao
Xuân
huyên lo sợ biết bao
Quá
ra khi đến thế nào mà hay
(2835
đến 2838)
8/
Khúc
đâu êm ái xuân tình
Ấy
hồn Thục Đế hay mình Đỗ Quyên?
Trong
sao châu nhỏ duềnh quyên
Ấm
sao hạt ngọc Lam điền mới đông!
(3201
đến 3204)
(Duềnh quyên: Vũng nước trong sáng đẹp hoặc có ánh
răng soi.)
Trước khi tìm hiểu trong 8 cặp vần nguyên chữ của Truyện
Kiều thì những cặp nào là vụng, không khéo và những cặp nào là “phá lệ” của cụ
Nguyễn để thực hiện một chức năng thẩm mỹ, tôi viết vài hàng làm chỗ dựa để lý
giải.
Chỗ
Dựa Để Lý Giải
Một chữ, một nhóm chữ, một câu hay một đoạn trong bài
thơ đều có ít nhất một chức năng: Chức năng truyền thông. Chúng kết hợp với
nhau cung cấp thông tin cần thiết để độc giả có thể “bắt” được, hiểu được những
suy nghĩ, tâm tình mà thi sĩ muốn chia sẻ.
Nếu thi sĩ chọn một thể thơ nào đó – trong bài này thi
sĩ chọn thể thơ lục bát – thì ngoài những nguyên tắc văn phạm, mỗi chữ, nhóm chữ,
câu, đoạn còn phải tuân thủ những quy định về luật (bằng trắc) và vần của thể
thơ này.
Thêm vào đó còn có những điều chưa thành luật, chưa
thành quy định, nhưng nếu thi sĩ “không khéo” mắc phải sẽ tạo thành hội chứng
nhàm chán vần, giảm giá trị của bài thơ. Tôi muốn nói đến “vần nguyên chữ”, “vần
ngang câu bát” và “vần quẩn”.
Một chức năng khác thường được nói đến trong thơ là chức
năng thẩm mỹ. Mỗi chữ, nhóm chữ, câu, đoạn được tác giả giúp tự trang điểm hoặc
cùng với các chữ, nhóm chữ, câu hay đoạn khác (trong cùng bài thơ) phối hợp với
nhau “làm đẹp” – để độc giả ngoài cái “sướng” “bắt” được, hiểu được suy nghĩ, tâm
tình của tác giả còn được thưởng thức nét đẹp văn chương của bài thơ.
Nếu tác giả không phải vô tình (hoặc “kẹt”) mà tự ý
phá luật, bỏ vần hoặc chấp nhận vướng vào một chỗ “không khéo” nào đó thì thường
là muốn bộc lộ một cái gì đó lạ, hay hoặc độc đáo hơn.
Trong 8 cặp vần nguyên chữ của Truyện Kiều thì cặp đầu
tiên
Vân
rằng: Chị cũng nực cười
Khéo
dư nước mắt khóc người đời xưa.
Rằng:
Hồng nhan tự thuở xưa
Cái
điều bạc mệnh có chừa ai đâu?
(105
đến 108)
Thúy Kiều nhắc lại chữ “xưa” để Thúy Vân thấy câu trả
lời của mình (Kiều) “đúng điểm”, xác đáng. “Lý do thật đặc biệt” ở đây là: Chữ
“xưa” ấy “bất khả thay thế” và làm tăng giá trị nghệ thuật của đoạn thơ.
Cái hay ở đây không những bù được cái vụng mà còn có lời
nữa.
Còn 7 cặp vần nguyên chữ khác từ số 2 đến số 8 (ru ru,
gian gian, lời lời, đồ đồ, Đường đường, bao bao, Quyên quyên) chỉ cung cấp
thông tin để độc giả hiểu ý, không có chức năng thẩm mỹ đặc biệt. Cụ Nguyễn Du,
trong 7 cặp lục bát này, đã vướng vào chỗ “không khéo”, chịu thiệt về mặt kỹ
thuật thơ mà chẳng kiếm chác được tí gì ở phần chức năng thẩm mỹ.
Thật đáng tiếc!
Hết Phần I
Phạm Đức Nhì
nhidpham@gmail.com
CHÚ THÍCH:
1/
Những
trang web viết “rỉ tai”
https://sites.google.com/site/khonggianketnoidqt/truyen-kieu-tron-bo
https://download.vn/truyen-kieu-44606
https://thinhphapam.com/truyen-kieu-nguyen-du/5/
https://hoavouu.com/images/file/DsgIQGAx0QgQALg_/tuyenkieu.pdf
2/
Tôi
tránh dùng nhóm chữ “trùng vần” vì sợ hiều lầm là nhiều cặp vần liên tiếp trong
một đoạn thơ. (Không là vần nguyên chữ nhưng các cặp đều cùng một vần).
3 nhận xét:
Hai anh Phú Đỗ và Lạc Nguyên góp ý cho rằng "âu" với "u" là thông vận. Tôi không đồng ý hoàn toàn nhưng nhận ra rằng xếp "âu" với "u" là cưỡng vận thì chưa đúng lắm. Và tôi đã đưa hai câu:
Lệnh quan lại bắt ép duyên thổ tù.
Nàng đà gieo ngọc trầm châu
lên hàng thông vận xa.
(Xin cám ơn hai anh Phú Đỗ và Lạc Nguyên)
Trả lời điểm sau đây của nhà bình thơ Phạm Đức Nhì:
"Ngoài ra, nói đến lạc vận, còn có 3 câu khác cũng khiến tôi băn khoăn:
Lệnh quan lại bắt ép duyên thổ tù.
àng đà gieo ngọc trầm châu
Sông Tiền Đường đó ấy mồ hồng nhan
(Câu 2962 đến 2964) - PĐN
Và PĐN ghi thêm
2963 Kiều 1871 娘陀招玉沉珠
Nàng đà gieo ngọc trầm châu,
2963 Kiều 1872 娘它招玉沉珠
Nàng đà gieo ngọc chìm châu -PĐN
.
Theo tôi nghĩ:
珠 Phát âm Việt: Châu hoặc CHU. (Hán Việt là tiếng Hán đọc theo âm Việt). Trong Nôm cũng có chữ Châu/ Chu này.
Thí dụ: Nhà Châu = Nhà Chu. Đông Châu Liệt Quốc = Đông Chu Liệt Quốc. Châu Du người Việt thường đọc là Chu Du
Thử xem lại bài thơ của Đỗ Phủ sau đây:
槐葉冷淘
.
青青高槐葉,
采掇付中廚。
新麵來近市,
汁滓宛相俱。
入鼎資過熟,
加餐愁欲無。
碧鮮俱照箸,
香飯兼苞蘆。
經齒冷於雪,
勸人投此珠。
願隨金騕褭,
走置錦屠蘇。
路遠思恐泥,
興深終不渝。
獻芹則小小,
薦藻明區區。
萬里露寒殿,
開冰清玉壺。
君王納涼晚,
此味亦時須。
.
Hoè diệp lãnh đào
.
Thanh thanh cao hoè diệp,
Thái xuyết phó trung trù.
Tân miến lai cận thị,
Trấp chỉ uyển tương câu.
Nhập đỉnh tư quá thục,
Gia san sầu dục vô.
Bích tiễn câu chiếu trợ,
Hương phạn kiêm bao lô.
Kinh xỉ lãnh ư tuyết,
Khuyến nhân đầu thử chu.
Nguyện tuỳ kim yêu niểu,
Tẩu trị cẩm đồ tô.
Lộ viễn tư khủng nê,
Hứng thâm chung bất du.
Hiến cần tắc tiểu tiểu,
Tiến tảo minh khu khu.
Vạn lý lộ hàn điện,
Khai băng thanh ngọc hồ.
Quân vương nạp lương vãn,
Thử vị diệc thì tu. - (Hoè diệp lãnh đào- Đỗ Phủ)
Ớ cău 10 từ trên xuống dưới, 珠 Phát âm là CHU
- Ta thấy vẩn U, Ô: bao lô- thử chu.- đồ tô- bất du "thuận vận". U và Ô cũng là thông vận
Nếu "cố tình" cho là câu thơ lạc vân thì đọc 珠 là CHÂU
Theo tôi nghĩ, cụ ND chắc rất rành về vần luật, không đọc CHÂU đâu. Chắc người sau in ấn sai.
- "Nàng đà gieo ngọc chìm/ trầm CHU" cũng giống nghĩa vậy. Nàng gieo thân ngọc , chìm/trầm thân ngọc
Kết Luận: Theo tôi, các câu trên của Nguyễn Du không lạc vận/ Phá vận.
Có nên "băn khoăn" không?
* Vần ÂU và U trong Tiếng Việt có những biến âm
- Mặc dầu = mặc dù.
- Ui, châu choa = Ui, chu choa
- Thâu thuế = Thu thuế.
- Kiền bâu ruồi đậu = kiến bu ruồi đậu.
……..
* Những biến âm như trên trong ngữ âm địa phương Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thiên càng gặp nhiều:
Trái bầu = trái bù, con dâu = con du, lá trầu = lá trù, bồ câu = bồ cu, cất dấu = cất dú, sâu cạn = su cạn, con trâu = con tru,…
* Từ điển Annam - Bồ Đào Nha - Latinh (Roma, 1651) của A.de Rhodes còn ghi “chếm cu” thay vì “chấm câu”, “cu lan” thay vì “câu lan (lơn)”, “bồ cu” thay vì “bồ câu”. Nhưng đến Tự vị Annam - Latinh (1772 - 1773) của Pierre Pigneaux de Béhaine thì đã thấy ghi chấm câu, bồ câu, câu lơn, chứ không còn ghi “cu” cho những trường hợp này nữa. Riêng chữ “câu” trong “bạch câu” quá khích thì vẫn còn được ghi là “bạch cu”.
* CHU hay CHÂU dù Hán hay Nôm chỉ là cách đọc khác nhau. Mời xem các dạng chữ Nôm của CHU
https://hvdic.thivien.net/nom/chu
Đăng nhận xét