BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Bảy, 12 tháng 9, 2020

ĐỌC “BỮA CƠM GIỮA CHÙA QUÊ” THƠ THÍCH TÍN THUẬN - Châu Thạch

                         
     
                            Nhà bình thơ Châu Thạch


BỮA CƠM GIỮA CHÙA QUÊ

Hè nắng đổ sân chùa như rực lửa
Bảng hổi lên hiệu báo bữa cơm thường
Những não phiền bao hệ phược vấn vương
Tạm ngưng nghỉ để nhường đường trai ngọ

Cơm một bát tròn xoe in để đó
Dĩa muống rau mềm mại ngó mà vui
Miếng đậu tương trắng toát thiệt rõ bùi
Canh bí đỏ thêm lạc vùi thơm tháp

Nâng ngang trán một lòng y như pháp
Ngọt đắng cay chua mặn nhạt cúng dường
Rõ trần ai khổ vô ngã vô thường
Trang huyễn mộng chỉ trò thương hải biến

Búp sen mở cánh xòe trên bảo điện
Nỗi buồn lo vừa đổi chuyển lạc an
Sáu căn trần dạ chẳng buộc duyên phan
Cùng sáu thức quẳng mơ màng trôi nổi

Cơm một bát đủ ấm lòng ba buổi
Kinh vẹn thì lục khắc với năm canh
Nguyện một lòng soi rọi giúp quần sanh
Thuyền Bát nhã đáp vương thành tịnh thổ

Trưa hè nắng nhưng mồ hôi chẳng đổ
Bát cơm lành trưa đúng ngọ cùng dâng…

                                  Thích Tín Thuận
                                      02.06.2016


    


    ĐỌC “BỮA CƠM GIỮA CHÙA QUÊ” THƠ THÍCH TÍN THUẬN 
                                                                                      Châu Thạch

     Nhà sư Thích Tín Thuận, chùa Chính Phước, Hải Lăng, Quảng Trị, là một một nhà thơ Phật Giáo mà tôi ái mộ. Tôi có duyên cùng với nhà thơ Trần Văn Hạng (ĐồngHà) được thăm thầy một lần. Trưa hôm đó, hai chúng tôi được thầy chiêu đãi bữa cơm chay. Bữa cơm mời đột xuất cho nên rất thanh đạm nhưng tôi lại nhớ mãi. Thú thật, trong đời tôi, lần đâu tiên được ăn bữa cơm “thanh tịnh” như thế, thanh tịnh vì chùa yên lặng mà trong lòng tôi cũng bình tịnh, an vui, thoát tục.

     Trưa hôm nay mở trang web Hai Bờ Giấy, tôi lại đọc được bài thơ “Bữa Cơm Giữa Chùa Quê” của thầy làm tôi sống lại một giờ năm ấy, trong ngôi chùa quê ấy, với bữa cơm nhà Phật cho tôi cảm thụ điều thú vị khác lạ mà tôi khó tìm được trong đời.

     Bài thơ của thầy rất rõ ràng, không có ẩn dụ gì, không có từ ngữ khó hiểu như thơ của các nhà sư hay các cư sĩ thường làm. Tuy thế trong thơ thầy, ẩn chứa một thứ hương thiền nhẹ nhàng, khiến khi đọc, tâm hồn ta tự nhiên thanh thản, trút hết “Những não phiền bao hệ phược vấn vương” như một câu thơ trong khổ thơ đầu sau đây:

             Hè nắng đổ sân chùa như rực lửa
             Bảng hổi lên hiệu báo bữa cơm thường
             Những não phiền bao hệ phược vấn vương
             Tạm ngưng nghỉ để nhường đường trai ngọ

     “Trai ngọ” là gì? Đó là bữa ăn trưa của các vị tu hành. Bữa ăn trưa của quý thầy thường được gọi là “Thọ trai”. Thọ là thọ dụng, là nhận, ăn hay dùng…. Trai là đời sống thanh tịnh, thiền định và trí huệ. Thọ trai là thọ dụng thức ăn nuôi sống thân tâm bằng đời sống thanh tịnh, phẩm hạnh, giới đức, thiền định và trí hụê.”

     “Ngày Phật còn tại thế, phần lớn quần chúng theo Bà La Môn và tu Tứ Thiền Bát Định, nhiều vị tu hành chỉ chăm chú vào thiền định mà lại không coi trọng ý nghĩa Giải Thoát. Có người thì ngồi thiền định mãi chẳng ăn uống rồi bỏ thân, có vị thì mê say trong lạc thú của thiền định an vui cho tự thân, chẳng gieo duyên giáo hóa; có vị thì ăn uống phi thời trở thành phóng dật, chẳng giữ oai nghi… Vì thế, Phật từ bi chế Giới Ngọ Trai.
     Ngọ Trai có hai phần là thọ thức ăn và giữ ngọ trai (ăn đúng giờ Ngọ)”

     Khổ thơ trên cho ta biết rằng các nhà sư không phải như ta, được gọi thì ngồi vào ăn bất cứ lúc nào mà ngược lại, họ phải ăn vào giờ ngọ tức khoản từ 11 giờ trưa đến 1 giờ chiều. Khi được báo ăn, việc làm đầu tiên của họ là “Những não phiền bao hệ phược vấn vương/Tạm ngưng nghĩ để nhường đường trai ngọ”.

     Dầu người Phật tử hay người không Phật tử, tôi nghĩ nếu cũng buông bỏ được như quý thầy trước phút ngồi vào bàn ăn thì thức ăn sẽ thấy ngon hơn, tiêu hóa sẽ tốt hơn và tất nhiên niềm vui sẽ len vào ngự trị tâm hồn ta lúc đó.
     Bây giờ xin hãy nhìn vào bữa ăn của tu sĩ được mô tả sau đây:

                Cơm một bát tròn xoe in để đó
                Dĩa muống rau mềm mại ngó mà vui
                Miếng đậu tương trắng toát thiệt rõ bùi
                Canh bí đỏ thêm lạc vùi thơm tháp

     Đúng như vậy, bữa ăn mà thầy Thích Tín Thuân mời chúng tôi tại chùa Chính Phước năm nọ cũng tương tự thế. Tôi còn nhớ có một món rất đặc biệt: Bẹ môn dầm muối (dưa môn) chấm nước tương. Chúng tôi ăn hoài ăn mãi, đến nay nhớ lại thì thèm. Những món ăn này không phải ngoài đời không có, nhưng sao ăn trong chùa nó trở nên rất ngon. Có lẽ nhà chùa biết dầm muối đúng cách là một, cái ngon tâm lý trong lòng mình là hai, cọng cả hai cái lại làm cho bữa ăn thành ra rất tuyệt. Chỉ thiếu một điều là thầy thì “thọ trai” còn chúng tôi là “ăn trưa”. Tuy thế, nhờ vậy tôi cũng hiểu được một chút hương vị của buổi “thọ trai” như thế nào. Tôi nghĩ, buổi trưa hôm ấy, nếu tôi mà cũng “Trai Ngọ” được như thầy chì chắc trong bữa ăn, tâm thần tôi sẽ an vui hơn nữa, linh hồn tôi sẽ nhẹ như một tờ giấy trắng.

     Khổ thơ thứ ba cho ta biết bữa ăn của người tu hành còn nhiều thủ tục phiền phức khác ta rất nhiều :

               Nâng ngang trán một lòng y như pháp
               Ngọt đắng cay chua mặn nhạt cúng dường
               Rõ trần ai khổ vô ngã vô thường
              Trang huyễn mộng chỉ trò thương hải biến

     “Nâng ngang trán một lòng y như pháp” nghĩa là ngoài những thủ tục mà người tu hành làm trong bữa ăn thì tâm thần phải giữ cho bửa ăn phải là “Bữa cơm chánh niệm” đúng như trong Phật pháp đã dạy. Bữa cơm chánh niệm đó, thầy, tác giả bài thơ đã giãi thích một phần nào trong hai câu thơ cuối của khổ thơ nầy và cả khổ thơ sau:

              Rõ trần ai khổ vô ngã vô thường
              Trang huyễn mộng chỉ trò thương hải biến
              Búp sen mở cánh xòe trên bảo điện
              Nỗi buồn lo vừa đổi chuyển lạc an
              Sáu căn trần dạ chẳng buộc duyên phan
              Cùng sáu thức quẳng mơ màng trôi nổi

     Trước khi hiểu ý nghĩa của những câu thơ trên đây, ta phải tìm hiểu ý nghĩa của “sáu căn trần” và “sáu thức” mà tác giả đã đề cập đên trong khổ thơ trên.

     “Trong 49 năm hành đạo, đức Phật luôn chỉ dạy chúng sinh phải giữ tâm mình cho được thanh tịnh và loại bỏ tất cả mọi phiền não. Bởi vì vọng tưởng và phiền não biến tâm của chúng ta thành mê muội, là cội nguồn của tham, sân, si. Chính nó là đại lộ kinh hoàng đưa chúng ta vào đường ác nghiệp và mãi mãi trầm luân trong lục đạo luân hồi. Cái gốc của vọng tưởng điên đảo là do sáu căn tiếp xúc với sáu trần, sanh ra sáu thức. Tất cả những chủng tử nghiệp cộng với biết bao nhân duyên đều được xuất phát từ đây. “

     Vậy sáu căn là gì?

     “Lục căn là chỗ nương tựa, làm gốc cho những cái khác nảy nở, tạo thành, bao gồm:

1. Nhãn là mắt, dùng để nhìn.
2. Nhĩ là tai, dùng để nghe.
3. Tỷ là mũi, dùng để ngửi.
4. Thiệt là lưỡi, dùng để nếm.
5. Thân là thân người, dùng để nhận biết những cảm giác như nóng, lạnh...
6. Ý là tư tưởng, dùng để phân biệt.”

     Sáu căn là như vậy còn “Sáu căn trần” trong câu thơ là gì?
     “Xung quanh chúng ta có biết bao hiện tượng, vật thể biến đổi không ngừng, chi phối từ tư tưởng đến hành động chúng ta từng giây từng phút, được gọi là “trần”. Như thế, trần có nghĩa là bụi, luôn luôn đổi dời. Trần ở đây cũng còn có nghĩa là phần vật chất, hay những cảnh vật xung quanh con người. Có 6 trần (lục trần):

1. Sắc là màu sắc, hình dáng.
2. Thanh là âm thanh phát ra.
3. Hương là mùi hương.
4. Vị là chất vị do lưỡi nếm được.
5. Xúc là cảm giác như cứng, mềm, nóng, lạnh.
6. Pháp là những hình ảnh, màu sắc, hương vị được lưu lại từ 5 trần ở trên.

     Bây giờ sáu thức là gì?

     “Khi Lục căn tiếp xúc với Lục trần, có nghĩa là: mắt thấy được hình ảnh nào, mũi ngửi được mùi thơm nào đó, lưỡi nếm được chất chua, cay hay ngọt, tai nghe được điệu nhạc êm đềm, thân thì cảm thấy đau đớn, hay lạnh lẽo, còn ý thì bắt đầu suy nghĩ, thì ký ức của chúng ta phát sinh ra sự phân biệt. Và chính sự phân biệt, hiểu biết và phán đoánnày được gọi là thức. Cũng như Lục căn, thức cũng có 6 thức nên thường được gọi là Lục thức. Do đó Lục thức gồm có: Nhản thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức và Ý thức.”

     Hiểu được căn, trần và thức thì ta hiểu được ý nghĩa thơ của tác giả trong bữa trai ngọ hay là một bữa ăn chánh niệm. Trong bữa ăn chánh niệm đó, người tu sĩ phải quán rõ sự vô ngã vô thường, sự huyễn mộng của kiếp sống, phải tách lìa sáu căn, quẳng đi sự mơ màng của sáu thức để cho tâm thần trở nên an lạc.

     Trong phần thơ còn lại, tác giả thỏa lòng với những bữa ăn trong cuộc đời tu hành của mình, nhà thơ nguyện với lòng sống vì đạo pháp để giãi cướu chúng sinh, đưa họ lên thuyền Bát nhã để về cõi Phật nơi tây phương tịnh độ:

           Cơm một bát đủ ấm lòng ba buổi
           Kinh vẹn thì lục khắc với năm canh
           Nguyện một lòng soi rọi giúp quần sanh
           Thuyền Bát nhã đáp vương thành tịnh thổ           

           Trưa hè nắng nhưng mồ hôi chẳng đổ
           Bát cơm lành trưa đúng ngọ cùng dâng…

     “Thuyền Bát Nhã là chiếc thuyền Trí huệ do pháp nhiệm của Phật tạo nên để rước các chơn hồn đắc đạo lên cõi cực lạc.

Thuyền Bát Nhã là từ ngữ để nói ví dụ so sánh. Con người sống trong cõi trần đầy ô trược nên bị tấm màn vô minh che lấp, để cho lục dục thất tình cám dỗ khiến sai. Chừng nào phá bỏ được tấm màn vô minh ấy thì vượt lên khỏi sự cám dỗ của lục dục thất tình, trở lại làm chủ chúng nó, lúc đó con người hết vô minh, tức nhiên đạt được Trí huệ, và cái Trí huệ ấy ví như chiếc Thuyền Bát Nhã, đưa con người đến cõi Cực Lạc Niết Bàn, đắc đạo thành Tiên Phật.”

     Người viết bài này, vì cảm động trước bài thơ nhẹ nhàng mà uyên thâm, thanh bai mà sâu nhiệm, lại nhớ đến bữa ăn mà mình từng được thụ lảnh, nên tra cứu sách vở để hiểu thêm bài thơ mà viết cảm nhận của mình, hầu cho những ai có đồng tâm tình thì thưởng thức nó. Những gì người viết tra cứu được để viết, đều đóng trong ngoặc kép. Kính mong qúy vị lượng thứ trước những điều sai trật.

                                                                                        Châu Thạch

Không có nhận xét nào: