Nhà thơ Trần Thoại Nguyên
Trước khi
bàn đến những bài thơ thơm hương thiền của Thi sĩ Trần Thoại Nguyên, xin hãy
nghe tác giả tâm sự:
“Tiểu luận về tổ sư thiền tông Bồ Đề Đạt
Ma”, một cuốn sách nhỏ mỏng manh của chàng trai trẻ tóc xanh Phạm Công Thiện,
xuất bản năm 1964, nhưng có sức nặng nghìn cân, có sức khai mở rộng khắp ghê gớm
cho người học Phật tâm tịnh thiền tông Việt Nam thời hiện đại, làm thay đổi hồn
thơ tôi năm 18, 20 tuổi!
Hàng loạt 5 bài thơ thơm hương Thiền của Thi sĩ Bụi Đời
Trần Thoại Nguyên đăng trên tạp Chí Tư Tưởng của ĐH Vạn Hạnh năm 1970, 1971
trong đó có bài thơ Đêm Trăng Leo Lên Mái Chùa” được rất nhiều bạn yêu thơ yêu
thích thuộc lòng!"
Xin đọc
bài thơ thứ nhất:
TĨNH TỌA
Giữa
trưa tĩnh tọa trong rừng
Chim
về tắt nắng gió lừng chiêm bao.
Ngồi
đôi mắt chết phương nào,
Run
cơn mộng đỏ chớp hào quang bay.
Triệu
bông hoa đỏ rực ngày
Trên
môi vĩnh cửu cơn say tang bồng.
Phiêu
phiêu lửa hạ đầy sông
Qua
tôi bóng ảnh trăng vồng cầu mưa.
Hốt
nhiên mặt đất hoang sầu
Đong
đưa nhánh ngọ vỡ màu lưu ly.
Sầu
xưa lả ngọn dã quỳ
Tôi
treo kiếp mỏng ngoài thời gian trôi.
Rừng
ĐẠI NINH, hạ 1970
(Tạp
chí TƯ TƯỞNG ĐH VẠN HẠNH, số 6, tháng 9 năm 1970.)
Núi rừng Đại
Ninh là xứ thâm nghiêm thanh tịnh đất Phật nên ngày nay đã trở thành làng chùa
nổi tiếng là làng nhiều chùa nhât Việt Nam. (Theo rất nhiều tài liệu trên mạng
toàn cầu). Thời trai trẻ Thi sĩ Trần Thoại Nguyên đã về đó vào mùa hạ năm 1971.
Bài thơ cho biết
tác giả ngồi tĩnh tọa trong rừng giữa một buổi trưa nhưng lại tả toàn những sự
xao động của ngoại cảnh và của chính nội tâm mình. Ngoại cảnh thì mọi vật không
bình yên, nào là “Chim về tắt năng gió lừng
chiêm bao. Phiêu phiêu lửa hạ đầy sông. Đong đưa nhánh ngọ vỡ màu lưu ly”.
Nội tâm thì “Ngồi đôi mắt chết phương
nào. Run cơn mộng đỏ chớp hào quang bay. Tôi treo kiếp mỏng ngoài thời gian
trôi”. Đọc bài thơ ta tưởng tác giả gần ngất đi vì bị tẩu hoa nhập ma!
Vì sao Trần
Thoại Nguyên ngồi tĩnh tọa mà tâm thần không ổn định vậy? hãy nghe lời giảng của
một vị thiền sư, ta sẽ hiểu hơn:
“Ma cảnh là những hiện tượng không có thật,
những cảm giác hư huyễn, những ảo tưởng mà người tu thiền thường gặp phải trong
giai đoạn nào đó. Ma cảnh là những vọng tưởng đến và đi theo thời gian nhưng nó
sẽ trở thành chướng ngại cho người tu vì thiếu sự chỉ dẫn để nó quyến rũ mà tưởng
rằng nó là thật. Ma cảnh thường xuất hiện tùy theo nhân cách tánh khí của người
tu. Trong kinh Lăng Nghiêm Đức Phật đã giảng rõ về 52 loài ma cảnh khác nhau.
Sau khi siêng năng tu tập để kiềm chế tư tưởng đến một lúc nào đó ma cảnh sẽ xuất
hiện và điều nầy rất thông thường không có gì là lạ cả. Có người nhìn thấy các
hiện tượng lạ lùng, có người nghe được những lời nói, hay mách bảo xui khiến,
có người còn ngửi được những mùi hương hay có thể sờ mó được một vật gì kỳ lạ.
Có khi họ thấy thân thể nhẹ bổng lên như bay, có khi họ cảm thấy như rơi vào một
hố thẳm không đáy. Có khi họ bật ra các câu nói kỳ lạ mà không thể kiểm soát được.”
(https://thuvienhoasen.org/a9761/30-the-nao-la-ma-canh)
Đọc bài giảng
trên, ta hiểu được Trần Thoại Nguyên đã tả thật những gì xảy ra cho nhà thơ trong khi ngồi tĩnh tọa. Đức
Phật Thích Ca trước khi thành đạo thì ma cảnh vẫn hiện ra suốt đêm trước mắt
ngài.
Có lẽ những
điều Thi sĩ Trần Thoại Nguyên lắng nghe được trong khi ngồi tĩnh tọa chính là
những ma cảnh, là những hiện tượng không có thật rất huyễn ảo mà vị thiền sư đã
giảng ở trên. Dưới con mắt của người trần
thưởng thức thơ, ta cảm nhận được trong thơ sự huyễn hoặc của một buổi trưa,
đem đến cho tâm hồn ta những cảm xúc khác lạ. Cái đẹp ở cõi trời và cái xấu ở
cõi ma hình như hòa lẫn trong nhau, nỗi đau và niềm khoan khoái như ở cùng một
chổ, khiến cho nhà thơ và ta như đến một miền kỳ dị, như treo linh hồn mong
manh của mình thoát tục ngoài dòng thời gian đang trôi:
"Tôi
treo kiếp mỏng ngoài thời gian trôi"!
Xin đọc
bài thơ thứ hai:
ĐÊM TRĂNG LEO LÊN MÁI
CHÙA.
Ngồi
trong vườn nguyệt lộ
Hôn
một màu trăng non.
Nghe
lòng mình cười rộ
Chạy
băng đồi vô ngôn.
Ồ.
Hồn tràn mộng trắng
Tôi
ôm trăng không màu
Tôi
ngút xuống biển dạng
Tôi
dại khờ mắt nâu.
Ngắt
một bông trắng lau
Hương
thắm giọt máu đào.
Đêm
bừng lên nguyệt thẹn
Tôi
nằm dài xanh xao.
Chim
về ngủ ôm trăng,
Ngô
đồng rơi chánh điện.
Tôi
ngồi giữa Phật đàng
Làm
thơ như thánh hiện.
Máu
ràn rụa tây hiên,
Ồ.
Máu băng ngực điên!
Tôi
tĩnh mịch trang thơ
Hồn
bay theo nhang khói.
Chim
chết giữa điện thờ
Tôi
rớt xuống điện thờ.
Chùa BẢO LỘC, Thu 1970.
(Tạp chí TƯ TƯỞNG ĐH VẠN HẠNH, Số 7,tháng 11 năm 1970)
“Đêm trăng leo lên mái chùa là định mệnh, là
cột mốc giữa đời sinh viên lang bạt, bằng một sự kiện hi hữu, TTN trở thành thi
sĩ.
Sau
khi bị té từ mái chùa xuống đất, đầu rướm máu, TTN xuất hồn viết bài thơ trên
giấy của bao thuốc Bastos xanh, bài thơ qua tay người bạn đến với Thiền sư Tuệ
Sĩ, được chọn đăng trên Tập san TƯ TƯỞNG của Viện Đại Học Vạn Hạnh – Cơ quan
ngôn luận, dẫn đạo về tư tưởng, Triết lý, Giáo dục và Văn hóa rất uy tín của Phật
Giáo Việt Nam.”
Trích
(Thi sĩ Trần Thoại Nguyên, Đời thơ - Phận người)
ZULU DC
Toàn bộ bài
thơ “Đêm Trăng Leo Lên Mái Chùa” tác
giả nói về trăng. Nhà thơ ngắm trăng, bay qua trăng, rơi trong trăng và ngộ ra
điều huyền nhiệm cũng ở trong trăng. Trăng là những điều huyền diệu soi khắp bản
thể của muôn vật trong trời đất. Mỗi con người trong linh hồn cũng có một vầng
trăng nội tại, nói xa xôi là một vị Phật còn ẩn trong lòng. Bài thơ như nói về
vầng trăng ngoại tại, vầng trăng thiên nhiên đã khai sáng, cho linh hồn thấy được
vầng trăng nội tại. Khi nhà thơ rơi từ cao xuống, cú va đập làm cho tóe máu
cũng chính là lúc hai vầng trăng hòa điệu cùng nhau, tánh Phật trong tâm chợt
lóe sáng.
Như nhà thơ ZuLu DCđã viết :
“TTN
đem vào trong thơ những từ ngữ triết học và thiền tông, bài thơ trở nên khó hiểu,
nó chỉ phù hợp với một số đọc giả tin vào giá trị và uy danh tạp chí Tư Tưởng của
Đại học Vạn Hạnh”. “Nó hướng tâm hồn của thi nhân vào chỗ đứng cao ngất ngưỡng,
cần có một số vốn liếng triết học và căn bản Phật học môn phái Thiền tông, mới
hoà nhập vào hồn thơ và ý nghĩa của “Đêm trăng leo lên mái chùa”.
Trích
(Thi sĩ Trần Thoại Nguyên, Đời thơ - Phận người)
ZULU
DC
Bài thơ ĐÊM TRĂNG LEO LÊN MÁI CHÙA, Châu Thạch tôi đã
đọc bình riêng trước đây rồi, được nhiều bạn đọc khen ngợi và nhiều trang
Website chia sẻ. Bài thơ thơm hương Thiền trong vầng trăng non tinh khiết giữa
đồi vô ngôn, tinh thần vô phân biệt “bông
trắng lau hương thơm giọt máu đào” và nhất là hồn Thi sĩ như Thiền sư trong
tĩnh mịch nhập diệt hiển hiện trong hình ảnh tượng trưng “Chim chết giữa điện thờ”!
Mời đọc bài thơ thứ ba:
CHIỀU VẠN HOA
Chiều
sương tỏa bóng quê người
Vườn
cam lộ nở ngát đồi vạn hoa.
Tôi
nằm uống cạn châu sa
Lòng
căng áo lụa xếp tà huy bay.
Nghe
hơi đất tận diệu kì
Mộng
nghiêng trái nhạc xuống bờ cỏ sương.
Ở
đây nắng cũ bạch dương
Chiều
ơi! Mấy ngã mây cuồng phiêu linh!
Đồi VỌNG CẢNH, HUẾ, vào hạ 1971
(Tạp chí TƯ TƯỞNG ĐH VẠN HẠNH, số 7, tháng 9 năm 1971)
Đồi VỌNG CẢNH, HUẾ, vào hạ 1971
(Tạp chí TƯ TƯỞNG ĐH VẠN HẠNH, số 7, tháng 9 năm 1971)
Ta thường
thấy tượng Quan Thế Âm Bồ tát tay trái cầm bình cam lồ (hay cam lộ), tay phải cầm
cành dương liễu. Quí vị tụng kinh Phổ Môn có câu “Nam mô thanh tịnh bình thùy dương liễu Quan Âm Như Lai cam lồ sái tâm
nguyện”. “Thanh tịnh bình” là bình thanh tịnh, “thùy dương liễu” là cành dương liễu rủ xuống,
Trong bình thanh tịnh chứa nước cam lồ. Nước cam lồ biểu
trưng cho lòng từ bi. Nước này rưới tới đâu là chan rải tình thương tới đó, làm
mát mẻ êm dịu mọi khổ đau của chúng sanh. Đặc điểm của nước cam lồ là vừa ngọt
vừa mát. Bình thanh tịnh là giới đức, như Phật tử giữ năm giới, nhờ giữ giới mà
trong sạch thanh tịnh.
Thi sĩ Trần Thoại
Nguyên đã nằm trên đồi Vọng Cảnh – Huế một buổi chiều sương. Cảnh thanh bình,
yên tịnh và đep làm cho tác giả tưởng tượng như vạn vật ở đây đã được Quan Thế
Âm rải nước Cam Lồ.
Trong kinh
Phật ngoài hoa Sen còn có rất nhiều loài hoa khác, mỗi loài hoa đều có ý nghĩa
khác nhau. Thi sĩ thấy trên đồi Vọng Cảnh “nở
ngát đồi vạn hoa” nghĩa là nhà thơ đã thọ nhận được trong linh hồn mình ngàn
vạn cái đẹp trong giờ phút ấy. Niềm khoan khoái trong thể xác, trong tâm hồn khiến
nhà thơ cảm nhận như mình được uống châu sa, là một dược liệu quý trong đông y, đã được xử dụng cách đây
2000 năm, tưởng mình nhẹ như tấm lụa bay trong hoàng hôn, theo những đám mây đi
phiêu linh mấy ngã. Kết thúc bài thơ Chiều Vạn Hoa trên đồi Vọng Cảnh là 2 câu
thơ tuyệt bút:
“Ở
đây nắng cũ bạch dương
Chiều
ơi mấy ngã mây cuồng phiêu linh”
"Ở
đây" là ở tại Đồi Vọng Cảnh thơ mộng của xứ Huế mộng mơ cụ
thể nầy hay ở tại trần gian "sương tỏa
bóng quê người" như thơ Hàn Mặc Tử từng niêm khắc thôn Vỹ Dạ ven kinh
thành Huế thuở nào "Ở đây sương khói
mờ nhân ảnh" ? Mà thi sĩ thấy được màu "nắng cũ bạch dương", một màu nắng tinh khôi như giác bạc
thuở nguyên sơ nào giữa hồn chiều vạn trùng mây bay phiêu linh trong thần thoại!
Quả là bài
thơ luc bát hay tả trọn vẹn một niềm vui tinh khôi thanh khiết, thánh thiện, diệu
kỳ mà tác giả nhận lảnh nhờ tâm hồn biết cảm nhận được làn hương thơm mùi thiền
trên đồi Vọng Cảnh.
Xin mời đọc
bài thơ thứ tư:
CHIỀU KHÔNG
(Tặng
Trịnh Công Sơn)
Đứng
nhìn bóng phượng liên chiều
Chiều
ơi! Chiều dại! Chiều xiêu ngã lòng.
Chiều
vàng, chiều trắng, chiều không
Ồ!
Tôi đứng hát giữa mông mênh chiều.
ĐỒI CÙ ĐÀ LẠT, Đầu thu 1971
(Tạp chí TƯ TƯỞNG ĐH VẠN HẠNH, Số 7, tháng 9 năm 1971)
Đồi Cù là
khu đồi nằm giữa trung tâm thành phố Đà Lạt, kế bên là Hồ Xuân Hương, là điểm
du lịch hấp dẫn, rất thơ mộng cho ai đến Đà Lạt. Thi sĩ Trần Thoại Nguyên đã "có một thời trai trẻ sống mê say điên
dại tận máu xương cùng sương mù, mưa phùn, nắng mật ong, gió ngàn thông và
trăng huyền mộng Đà Lạt!" (Theo lời tác giả). Khu Đồi Cù ngày xưa cảnh quan tự do khách thập
phương có thể lên đồi cỏ xanh dưới những táng bóng thông mát mà hít thở không
khí trong lành, tha hồ mà ngắm cảnh.
Chỉ ở Đà Lạt mới có mùa hoa phượng trắng và hoa phượng
tím đẹp thơ mộng đến thế! Thi sĩ đứng nhìn hoa phượng và liên nghĩ hàng vạn buổi
chiều mênh mông trên quê hương và trong cuộc sống của mình. Hay chăng Thi sĩ
nghĩ đến loài chim phượng quý hiếm bay khắp chiều quê hương mà trong thơ Hồ Dzếnh
đã từng nhắc đến : "Thơ về nắng sáng
lừng cây / Xếp đôi cánh phượng cho ngày rạng ra" ?
Sở dĩ bài
thơ được tặng cho Trinh Công Sơn vì thời trai trẻ ngày ấy Thi sĩ Trần Thoại
Nguyên có duyên được gần gũi NS tài hoa Trịnh Công Sơn như đứa em thân tình
trên phố núi sương mù Đà Lạt (Xin mời gõ
Google đọc "NÉN HƯƠNG LÒNG TƯỞNG NHỚ NS TRỊNH CÔNG SƠN" của TTN)
Và có lẽ vì nhạc sĩ nầy có bài hát “Chiều
Trên Quê Hương Tôi” được Trần Thoại Nguyên ưa thích. Bài hát “Chiều Trên Quê Hương Tôi” có đầy đủ ý
nghĩa thực tế “Có khi đây một trời mưa
bay”, có khi “Nắng phơi trên màu ngói
non tươi”, “Có những chốn riêng cho mọi người”, “Nắng khép cánh chia tay một
ngày”, “Lửa bếp hồng khơi” và “Ước
bao nhiêu điều đã trôi qua/Nét quê hương nghìn năm vẫn là”. Bài hát không
thiền, nhưng qua tư duy của Trần Thoại Nguyên, bài thơ mang hương thiền, bởi những
buổi chiều trở nên chấp chới, chao nghiêng, dại khờ và mênh mông vô định giống
như sự vô thường của cuộc sống trần gian.
Hay ta tưởng tượng hình ảnh Thi sĩ đứng dang tay với
mái tóc dài bồng bền và vạt áo pardessus cùng bay trong gió ngàn thông và hát
nghêu ngao "Đường phượng bay mù
không lối vào. Hàng cây lá xanh gần với nhau. .." (Mưa Hồng - TCS)
Trên Đồi Cù lộng gió của xứ sở ngàn hoa vạn màu sắc
hương đó, Thi sĩ như nhập hồn vào cảnh vật tâm không, ngạc nhiên với hình ảnh
mình đứng nghêu ngao giữa đất trời thật thoát tục, thơm hương Thiền:
"Chiều
vàng, chiều trắng, chiều không
Ồ.
Tôi đứng hát giữa mông mênh chiều."
Xin đọc bài thơ thứ năm:
BƯỚM LẠ
(Tặng
Phạm Thiên Thư)
Triệu
con trăng khóc tang mùa
Tôi
nằm tuyệt huyết bên chùa động chuông
Có
con bướm hiện dị thường
Gáy
liên thiên mộng hoang đường nửa đêm
Ngần
ngần hồn vỡ thơ điên
Ồ.
Con bướm lạ ấy tiên tri đời.
CHÙA LINH SƠN ĐÀ LẠT, Đầu thu 1971
(Tạp chí TƯ TƯỞNG ĐH VẠN HẠNH, số 7, tháng 9 năm 1971)
Ngày trai trẻ Thi sĩ Trần Thoại Nguyên ghi danh học
Ban Triết Viện Đại học Đà Lạt nhưng hay lang thang phiêu bồng cả 4 vùng chiến
thuật miền Nam thuở ấy và thường về Sài Gòn ghé thăm bạn văn nghệ là những nhà
sư trẻ ở ĐH Vạn Hạnh như sư Chân Pháp Nguyễn Hữu Hiệu (em ruột Nhà thơ Viên
Linh), sư Tuệ Không Phạm Thiên Thư. ..
Chắc là Thi sĩ Trần Thoại Nguyên rất ngưỡng mộ tài làm
thơ của Nhà thơ Phạm Thiên Thư với hàng loạt thơ hay đăng trên các báo ở Thủ đô
Sài Gòn lúc ấy và có đăng thơ trên Tạp chí Tư Tưởng của Đại học Vạn Hạnh, cũng
như được NS thiên tài Phạm Duy phổ nhạc được nhiều người ưa thích, mà dành tặng
cho Phạm Thiên Thư bài thơ nầy
Thơ tặng bạn nhưng từ phiêu hốt hồn mình giữa đêm
hoang đường mặt đất "làm thơ như
thánh hiện" (Đêm trăng leo lên mái chùa) và với nỗi ám ảnh "tài hoa yểu mệnh" như Thi sĩ
đã từng bộc lộ trong bài thơ GIỮA MÙA HUYỄN TƯỢNG đăng Tạp chí Chính Văn của
Nhà văn Nguyễn Manh Côn cùng năm 1971:
"Một
mai đời chợt vỡ hương tan
Bay
tuyết vàng thu mộng úa tàn
Một
bóng tài hoa sầu cuối mộ
Hồn
thơ còn động cõi thiên man
Một
mai tôi chết bên đồi vắng
Nằm
lạnh hư không mồ tịch liêu
Hồn
vẫn nhớ ai chùng mây trắng
U
ám trần gian những buổi chiều " ...
Cho nên mở đầu bài thơ với giọng thơ tang tóc rùng rợn
của giờ hóa kiếp :
Triệu
con trăng khóc tang mùa
Tôi
nằm tuyệt huyết bên chùa động chuông
Theo lời tác giả kể hoàn cảnh ra đời của bài thơ trên
trang Facebook: "Đêm đó tôi và bạn
thân thiết điên khùng Trần Nhơn đi chơi phố, cafe về chùa Linh Sơn quá khuya,
không dám gọi chú Lạc phòng kinh sách để tá túc như mội đêm (nay chú Lạc là Hòa
Thượng Chơn Nguyên, Thiền Viện Vạn Hạnh Sài Gòn) nên 2 thằng quấn áo Pardessuy
mà thao thức ở lầu chuông chùa Linh Sơn, đến giờ dộng Đại hồng chung sáng sớm
thì hai thằng vừa co ro hít hà lêu bêu ra phố và trong hồn tôi hình thanh bài
thơ rồi đọc lại bài thơ ở quán cafe Tùng Thành phố Đà Lạt cho bạn nghe và cũng
nói luôn với bạn là bài thơ xứng đáng tặng con bướm dị thường Phạm Thiên
Thư."
Kẻ làm thơ, nghệ sĩ sáng tạo đều mang nghiệp như nghiệp
tằm phải nhả tơ. Thi sĩ thấy mình hóa kiếp thành bướm lạ "gáy liên thiên mộng hoang đường nửa đêm" !
Nhà thơ Phạm Thiên Thư sau nầy chắc khoái ý về bài thơ
nầy vì ông hay nói quẻ xem tướng cho bạn thơ đến quán Hoa Vàng của ông để cùng
cafe, nên đã cho in trong tập Truyện Liêu Trai của mình, ngầm xem như Thi sĩ Trần
Thoại Nguyên đã tiên tri về mình:
Ngần
ngần hồn vỡ thơ điên
Ồ.
Con bướm lạ ấy tiên tri đời
Trên
Website Art2all.net giới thiệu Thơ Thiền của Thi sĩ Trần Thoại Nguyên lại có
đăng thêm một bài thơ nữa cùng thời điểm sáng tác cũng trong trạng thái Thi sĩ
Tĩnh Tọa trong đêm trăng ở làng cổ Phước Tích của xứ Huế rất thơm hương Thiền!
Chẳng thể bỏ qua mà không đọc!
Mời đọc bài
thơ thứ sáu:
ĐÊM TRĂNG PHƯỚC TÍCH
Tôi
về Phước Tích đêm nay
Hôn
trăng gỗ quí nghe đầy tiếng chim.
Cột
kèo ôm mộng rồng thiêng
Buồn
vương khế thị lộng hiên áo bà.
Gốm
vàng men ánh sông xa
Nghiêng
nghiêng đất trích giậu hoa kinh thành.
Tôi
ngồi thiền định trăng thanh
Nghe
hồn thu thảo trầm mình Ô Lâu
Sóng
thời gian vỗ cung sầu
Hồn
tôi Phước Tích nguyên màu trăng xưa.
Phước Tích
là một làng cổ nổi tiếng của Huế vàng son, cách trung tâm thành phố Huế 35 km về
hướng Bắc, nằm lặng lẽ bên bờ sông Ô Lâu, địa phận chia cắt tỉnh Thừa Thiên –
Huế và tỉnh Quảng Trị. Với tuổi đời trên 500 năm và đã được xếp hạng di tích quốc
gia. Mặc dù hơn 500 năm tuổi nhưng làng
cổ Phước Tích vẫn còn lưu giữ vẹn nguyên văn hoá làng nghề, với hệ thống đình,
chùa, đền, miếu, nhà rường cổ, bóng cây cổ thụ điển hình của thôn quê Bắc Trung
Bộ.
Bài thơ nầy
gọi là “thơm hương thiền” chỉ vì tác
giả về ngồi thiền dưới trăng thanh tịnh giữa khung cảnh còn nhiều di tích cổ
xưa. Nhờ ngồi thiền, Thi sĩ đã trầm tư lắng hồn đi vào vẻ đẹp kiến trúc chạm khắc
vàng son và cây thị cổ tích xưa của làng:
Cột
kèo ôm mộng rồng thiêng
Buồn
vương khế thị lộng hiên tay bà
Cũng như nhập
hồn vào cảnh vật làng nghề gốm truyền thống tinh xảo ven Kinh thành Triều Nguyễn
vàng son thuở xưa:
Gốm
vàng men ánh sông xa
Nghiêng
nghiêng đất trích giậu hoa kinh thành
Ngồi thiền
định dưới trăng thanh tịnh, tâm hồn thoát tục như được bay trên sóng thời gian để quay về với quá khứ và cảm nhận hồn
cây cỏ vạn vât, thành quách lầu đài vàng son xưa đã vùi chôn theo theo sóng thời
gian trôi theo dòng nước sông Ô lâu kia:
Tôi
ngồi thiền định trăng thanh
Nghe
hồn thu thảo trầm mình Ô Lâu
Giữa sóng
thời gian lớp lớp xuôi một dòng sầu đó, hồn thi nhân thoát tục vẫn trong sáng
nguyên sơ như màu trăng làng Phước Tích ban sơ xưa:
Sóng
thời gian vỗ cung sầu
Hồn
tôi Phước Tích nguyên màu trăng xưa
Một cuộc
quay về trong tưởng tượng hay nẻo về tâm linh huyền nhiệm thật sự ta không thể
biết được!
Hai câu
thơ kết có thể cho ta một niềm tin là nhà thơ đã để linh hồn mình nương theo
sóng thời gian quay về với làng Phước Tịch
của 500 năm trước. Đến đây, linh hồn tác giả không còn là linh hồn của Trần Thoại
Nguyên nữa, mà linh hồn ấy đã hòa nhập trong không gian, thời gian của quá khứ,
trở thành linh hồn Phước Tích, là linh hồn của cả một miền đất thanh tịnh huyền
thoại xưa!
Việc nhà
thơ ngồi thiền nhập định đạt đạo đến đâu, chỉ có nhà thơ biết.Ta chỉ biết qua
thơ, ta thấy một bức tranh tuyệt đẹp. Bức tranh trong thơ lột tả hình ảnh một
thi nhân ngồi thiền dưới trăng thanh tịnh, trong một khung cảnh cổ kính, cho ta
một vài giây phút thoát ly trần tục, để phiêu lưu cùng tác giả đến một miềm êm
ái vô biên, như sự êm ái của bài thơ!
Trên đây là
những bài thơ mà chính tác giả đã cho biết được ảnh hưởng từ “Tiểu Luận Về Tổ Sư Thiền Tông Bồ Đề Đạt Ma”
nên sáng tác được những bài thơ “Thơm
Hương Thiền” như thế.
Riêng người
viết bài nầy không có trình độ giáo lý nhà Phật, không ngồi thiền, không phật tử,
chỉ cảm nhận rất tự nhiên những bài thơ như cảm nhận cái hay cái đẹp của bản nhạc
mà mình không biết nhạc lý, không phân biệt âm thanh của mỗi cây đàn, thế nhưng
vẫn ái mộ, vẫn vỗ tay khen thưởng và vẫn mời mọi người đến nghe cùng mình. Vậy
nên thành thật tạ lỗi nếu những điều viết ra đây là múa bá vơ!
Châu Thạch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét