Thượng tọa Giới Đức (Minh Đức Triều Tâm Ảnh) là một trong những người sáng lập ra chùa Huyền Không (Huế) và là nhà thơ có tên tuổi ở đất thần kinh và đã xuất bản nhiều tập thơ. Ông cũng là nhà văn rất nổi tiếng trong giới Phật giáo; những tác phẩm của ông chẳng những có giá trị trong giới Phật học trong và ngoài nước mà còn đóng góp không nhỏ cho nền văn chương, văn học của Việt Nam.
Với cái nhìn “chủ
quan” của một tu sĩ Theravāda, tôi xin mạo muội liệt kê ra đây những hiểu lầm
tai hại và rất phổ biến của Phật giáo trong và ngoài nước để chư vị thức giả
cùng thấy rõ như thực:
NHỮNG
HIỂU LẦM VỀ ĐẠO PHẬT
Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Đạo Phật ngày càng suy đồi, tha hoá, “mạt pháp”, nguyên nhân thì nhiều, nhưng
đôi khi vì trong giới tu sĩ và cư sĩ không trang bị đủ kiến thức của giáo pháp
như thực - tức là giáo pháp cội rễ - mà chỉ chạy theo cành, nhánh, ngọn lắm hoa
và nhiều trái. Từ đấy, khó phân biệt đâu là đạo Phật chơn chánh, đâu là đạo Phật
đã bị biến chất, chạy theo thị hiếu dung thường của thế gian. Đôi nơi đạo Phật
còn bị trộn lẫn với tín ngưỡng duy linh và cả tín ngưỡng nhân gian nữa... Nhiều
lắm, không kể xiết đâu.
1- Tôn giáo: Đạo Phật có những sinh hoạt về tôn giáo
nhưng đạo Phật không phải là tôn giáo, vì đạo Phật không có một vị thượng đế tối
cao hoá sinh muôn loài và có quyền ban thưởng, phạt ác.
2- Tín ngưỡng: Đạo Phật có những sinh hoạt tín ngưỡng
nhưng đạo Phật không phải là tín ngưỡng để mọi người đến van vái, cầu xin những
ước mơ dung tục của đời thường.
3- Triết học: Đạo Phật có một hệ thống tư tưởng được
rút ra từ Kinh, Luật và Abhidhamma, được gọi là “như thực, như thị thuyết” chứ
không phải là một bộ môn triết học “chia” rồi “chẻ”, “phán” rồi “đoán” như của
Tây phương.
4- Triết luận: Đạo Phật có tuệ giác để thấy rõ Cái Thực
chứ không sử dụng lý trí phân tích, lý luận. Còn triết, còn luận là vì chưa thấy
rõ Cái Thực. Đạo Phật là đạo như chơn, như thực. Kinh giáo của đức Phật luôn đi
từ cái thực cụ thể để hướng dẫn mọi người tu tập, nó không có triết, có luận
đâu. Ngay “thiền” mà còn “luận” (thiền luận) là đã đánh mất thiền
rồi.
5- Từ thiện xã hội: Đạo Phật có những sinh hoạt từ thiện
xã hội nhưng không coi từ thiện xã hội là tất cả, để hy sinh cuộc đời đầu tròn,
áo vuông một cách uổng phí. Đạo Phật còn có những sinh hoạt cao cả hơn: Đó là
giáo dục, văn hoá, nghệ thuật, tu tập thiền định và thiền tuệ nữa. Từ thiện xã
hội thì ai cũng làm được, thậm chí người ta còn làm tốt hơn cả Phật giáo, ví dụ
như Bill Gates. Còn giáo dục, văn hoá, nghệ thuật của đạo Phật là nền tảng Mỹ Học
viết hoa (nội hàm các giá trị nhân văn, nhân bản) mà không một tôn giáo, môt chủ
nghĩa, một học thuyết nào trên thế gian có thể so sánh được. Và đây mới là sự
phụng hiến cao đẹp của đạo Phật cho thế gian. Còn nữa, nếu không có tu tập thiền
định và thiền tuệ thì mọi hình thái sinh hoạt của đạo Phật, xem ra không phải
là của đạo Phật đâu!
6- Cực lạc, cực hạnh phúc: Đạo Phật có nói đến hỷ, lạc
trong các tầng thiền; có nói đến hạnh phúc siêu thế khi ly thoát tham sân, khổ
lạc (dukkha), phiền não của thế gian - chứ không có một nơi chốn cực lạc, cực hạnh
phúc được phóng đại như thế.
7- 8 vạn 4 ngàn pháp môn: Đạo Phật có nói đến 8 vạn 4
ngàn pháp uẩn (dhammakhandha) chứ không nói đến 8 van 4 ngàn pháp môn
(dhammadvāra). Uẩn (khandha) ngoài nghĩa che lấp, che mờ và nghĩa chồng lên, chồng
chất, còn có nghĩa là nhóm, liên kết, tập hợp ví như Giới uẩn (nhóm giới), Định
uẩn (nhóm định), Tuệ uẩn (nhóm tuệ). Do từ uẩn (khandha) lại dịch lệch ra môn -
cửa (dvāra), pháp môn nên ai cũng tưởng là có 8 vạn 4 ngàn pháp môn, tu theo
pháp môn nào cũng được! Ai là người có thể đếm đủ 8 vạn, 4 ngàn cửa pháp này?
Còn nữa, xin lưu ý, 8 vạn 4 ngàn chỉ là con số tượng trưng, có nghĩa là nhiều lắm,
đếm không kể xiết theo truyền thống tôn giáo và tín ngưỡng Ấn Độ cổ thời. Ví dụ
84 ngàn lỗ chân lông, 84 ngàn vi trùng trong một bát nước, 84 ngàn phiền não,
84 ngàn cách tu...
8- Xin xăm, bói quẻ, cầu sao, giải hạn, xem ngày giờ tốt
xấu: Những hình thức này không phải của đạo Phật. Trong kinh tụng Pāli có đoạn:
“Sunakkhataṃ sumaṅgalaṃ supabhātaṃ suhuṭṭhitaṃ,
sukhno ca suyiṭṭaṃ brahmacārisu. Padakkhinaṃ kāyakammaṃ vācākammaṃ padakkhinaṃ
padakkhinaṃ manokammaṃ paṇidhī te padakkhinā...”
Có nghĩa là: Giờ nào (chúng ta) thực hành thân, khẩu,
ý trong sạch; giờ đó được gọi là vận mệnh tốt, là giờ tốt, là khắc tốt, là canh
tốt... Ngày đó gọi là có nghiệp thân phát đạt, nghiệp khẩu phát đạt, nghiệp ý
phát đạt. Và nguyện vọng theo đó được gọi là nguyện vọng phát đạt. Người tạo
nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý phát đạt như thế rồi sẽ được những lợi ích
phát đạt (chữ phát đạt có thể có thêm nghĩa nhiêu ích).
9- Định mệnh: Đạo Phật có nói đến nghiệp, đến nhân quả
nghiệp báo chứ không hề nói đến định mệnh. Theo đó, gây nhân xấu ác thì gặt quả
đau khổ, gây nhân lành tốt thì gặt quả an vui - chứ không phải “cái tơ cái tóc
cũng do trời định” như định mệnh thuyết của Khổng Nho hoặc định mệnh 4 giai cấp
của Bà-la-môn giáo.
10- Siêu độ, siêu thoát: Không có bài kinh nào, không
có uy lực của bất kỳ ông sư, ông thầy nào có thể tụng kinh siêu độ, siêu thoát
cho hương linh, vong linh, chân linh cả. Thời Phật tại thế, nếu có đến nơi người
mất, chư tăng chỉ đọc những bài kệ vô thường, khổ và vô ngã để thức tỉnh người
sống; và hiện nay các nước Phật giáo Theravāda còn duy trì. Có thể có hai trường hợp:
- Nếu vừa chết lâm sàng thì thần thức người chết vẫn
còn. Vậy có thể đọc kinh, mở băng kinh, chuông mõ, hương trầm... để “thần thức người chết” hướng về điều
lành... để thần thức tự tạo “cận tử nghiệp”
tốt cho mình.
- Nếu thần thức đã lìa khỏi thân rồi – thì họ đã tái
sanh vào cõi khác rồi, ngay tức khắc. Khi ấy thì gia đình làm phước để chư tăng
tụng kinh hồi hướng phước ấy cho người đã mất.
Cả hai trường hợp trên đều không hề mang ý nghĩa siêu
độ, siêu thoát mà chỉ có ý nghĩa gia hộ, gia niệm, gia lực mà thôi. Tu dựa vào
tha lực cũng tương tự như vậy, nhưng cuối cùng cũng phải tự lực: “Tự mình thắp đuốc mà đi, tự mình là hòn đảo
của chính mình”.
Chư thiên chỉ có khả năng hoan hỷ phước và báo truyền
thông tin ấy cho người quá vãng mà thôi. Họ không có uy lực ban phước lành cho
ai cả.
11- Huyền bí, bí mật: Giáo pháp của đức Phật không có
cái gì được gọi là huyền bí, bí mật cả. Đức Phật luôn tuyên bố là “Như Lai thuyết pháp với bàn tay mở ra”;
có nghĩa là ngài không có pháp nào bí mật để giấu kín cả!
12- Tâm linh: Ngày nay, người ta tràn lan lễ hội, tràn
lan mọi loại điện thờ với những hình thức mê tín, dị đoan, sa đoạ văn hoá... mà
ở đâu cũng rêu rao các giá trị tâm linh. Đạo Phật không hề có các kiểu tâm linh
như vậy. Thuật ngữ tâm linh này được du nhập từ Trung Quốc. Và rất tiếc, tôi
không hề tìm ra nguồn Phật học Pāli hay Sanskrit có từ nào tương thích với chữ “linh” này cả!
13- Niết-bàn: Nhiều người tưởng lầm Niết-bàn là ở một
cõi nào đó, một nơi chốn nào đó; thậm chí là ở một thế giới ở ngoài thế gian
này. Người nào tìm kiếm Niết-bàn kiểu ấy, thuật ngữ thiền tông có cụm từ “lông rùa, sừng thỏ” như ngài Huệ Năng
đã nói rõ: “Phật pháp tại thế gian. Bất
lý thế gian giác. Ly thế mịch bồ-đề. Cáp như tầm thố giác”. Thố giác là sừng
thỏ. Và giác ngộ cũng vậy, chính ở trong khổ đau, phiền não mới giác ngộ bài học
được.
14- Bỏ khổ, tìm lạc: Tu Phật không phải là bỏ khổ, tìm
lạc. Xin lưu ý cho: Khổ và Lạc chính là căn bản của phiền não!
15- Tu để được cái gì! Có nhiều người nghĩ rằng, tu là
để được cái gì đó. Xin thưa, được cái gì là sở đắc. Ai sở đắc? Chính là bản ngã
sở đắc. Đạo Phật là vô ngã. Hãy xin đọc lại Bát-nhã tâm kinh.
16- Tu là sửa: Nếu tu là sửa thì mình đã từ “cái ta này” biến thành “cái ta khác”. Nếu tu là không sửa thì cứ
để nguyên trạng tham sân si như vậy hay sao? Xin thưa, sửa hay không sửa đều trật.
Đạo Phật quan trọng ở Cái Thấy! Có Cái Thấy mới nói đến giác ngộ và giải thoát.
Không có Cái Thấy này thì tu kiểu gì cũng trệch hướng hoặc rơi vào phước báu
nhân thiên.
17- Vía: Đạo Phật không có vía nào cả. Vía, hồn, phách
là quan niệm của nhân gian. Ví dụ, ba hồn bảy vía. Ví dụ, nam thất, nữ cửu –
nam bảy vía, nữ chín vía. Nếu là nam thất, nữ cửu thì nó trùng với nam 7 khiếu,
nữ 9 khiếu. Vía là phần hồn. Không có cái hồn, cái linh hồn tự tồn tại nếu
không có chỗ nương gá. Vía không độc lập được. Như danh - phần tâm, sắc - phần
thân – luôn nương tựa vào nhau. Chỉ có năng lực thiền định mới tạm thời tách
lìa danh ra khỏi sắc, như Cõi trời Vô tưởng của tứ thiền. Tuy nhiên, cõi trời
Vô tưởng hữu tình này không phải là không có danh tâm mà chúng ở dạng tiềm miên. Còn các Cõi trời Vô sắc thì sắc không phải là
không có, chúng cũng ở dạng tiềm miên. Thật đáng phàn nàn, Phật và Bồ-tát đều
có “vía” cả! Và cũng thật là “đau khổ” khi trong lễ an vị Phật, người
ta còn hô “Thần nhập tượng” nữa chứ!
18- Bồ-tát: Bồ-tát là âm của chữ Bodhisatta: Chúng
sanh có trí tuệ. Vậy, chúng ta tạm thời bỏ quên “khái niệm Bồ-tát” quen thuộc trong kinh điển mà trở về với nghĩa gốc
là “chúng sanh có trí tuệ”. Và như vậy,
sẽ có hạng chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực Thanh Văn; chúng sanh có trí tuệ
với nguyện lực Độc Giác; chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực Chánh Đẳng Giác.
Ngoài 3 loại chúng sanh có trí tuệ trên – không có loại chúng sanh có trí tuệ
nào khác.
19- Phật: Phật là âm của chữ Buddha, nghĩa là người
Giác ngộ. Vậy chúng ta nên tạm thời bỏ quên “khái
niệm Phật” từ lâu đã mọc rễ trong tâm thức mà trở về nghĩa gốc là bậc Giác
ngộ. Vậy, có người Giác ngộ do nghe pháp từ bậc Chánh Đẳng Giác, được gọi là
Thanh Văn Giác. Có người Giác ngộ do tự mình tu tập vào thời không có đức Chánh
Đẳng Giác, được gọi là Độc Giác. Có vị Giác ngộ do trọn vẹn 30 ba-la-mật, trọn
vẹn minh và hạnh nên gọi là Chánh Đẳng Giác.
Không có vị Giác ngộ (Phật) nào ngoài 3 loại Giác ngộ
trên.
20- Thể nhập: Tu là không thể nhập vào cái gì cả. Thể
nhập là bỏ cái ngã này để nhập vào cái ngã khác. Cãi ngã khác ấy có thể là dòng
sông, có thể là ngọn núi, có thể là một cội cây, có thể là một thần linh, thượng
đế. Cái cụm từ “thể nhập pháp giới” rất
dễ bị hiểu lầm. Khi đi, chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái đi; khi nói,
chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái nói; khi ăn, chánh niệm, tỉnh giác trọn
vẹn với cái ăn – thì đấy mới đúng nghĩa “thể
nhập pháp giới”, ngay giây khắc ấy, mọi tham sân, phiền não không có chỗ để
phan duyên, sanh khởi.
Ngoạ Tùng Am, Sơ Xuân 2015
Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Nguồn:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét