Nhà
văn Thạch Lam và các tác phẩm tiêu biểu
KHÁM
PHÁ HỒ TÂY:
NHÀ TRANH, GỐC LIỄU CỦA THẠCH LAM
NHÀ TRANH, GỐC LIỄU CỦA THẠCH LAM
Nguyễn Ngọc Tiến
Hồ
Tây gắn liền với những văn sĩ tài hoa bậc nhất của thi đàn Việt Nam, từ Nguyễn
Du, Hồ Xuân Hương, cho đến sau này là Thạch Lam, tác giả của “Hà Nội ba sáu phố
phường”. Nhà văn yểu mệnh này có căn nhà soi bóng xuống Hồ Tây, đã đi vào thơ bạn
bè mà không hề tô vẽ: Tây Hồ có danh sĩ/ Nhà thì ở nhà tranh/ Cửa trúc cài phên
gió/ Trước thềm bóng liễu xanh…”
Hồi ký nhà thơ Đinh Hùng (1920-1967) kể rằng ông không
bao giờ quên được bữa rượu hội kiến đầu tiên với sự có mặt của: Nhất Linh, Thế
Lữ, Huyền Kiêu, Thạch Lam và cả kịch sỹ Song Kim.
“Thoạt
đầu, chúng tôi còn uống rượu Rhum pha vào nước chè đường với từng lát chanh thái mỏng, theo kiếu
“grog” nóng (không rõ là uống kiểu gì). Uống từ 6 giờ chiều tới 12 giờ đêm thì
Thế Lữ bỏ cuộc, cùng vợ bé trở về nhà
riêng. Còn bốn người vẫn tiếp tục uống, cho tới 3 giờ sáng thì cả rượu Rhum
cùng thức nhắm đều hết nhẵn. Nhất Linh tuy vẫn chưa có vẻ say chút nào nhưng tỏ
ý muốn đi ngủ, và anh ra nằm ở chiếc võng giữa nhà, ê a ngâm thơ, mặc Thạch
Lam, Huyền Kiêu và tôi xoay ra uống rượu Văn Điển (*) suông với nhau.
Khuya
lắm, người nhà Thạch Lam đã ngủ yên hết, ba chúng tôi còn loay hoay xuống bếp
nướng mực và mò gầm giường lấy dưa chua trong vại ra nhậu. Dần dần, cả mực nướng
lẫn dưa chua đều vợi hết, chúng tôi liền vặt luôn những cánh hoa sen cắm trong
lọ mà nhắm… Hết cánh hoa, đến nhụy hoa, rồi đến cả những hương sen mới nhú cũng
biến thành món nhậu. Và cứ như thế, cuộc rượu bốn người kéo liền một mạch tới
đúng 12 giờ trưa hôm sau.
Nhất Linh kêu nóng, có lẽ chính anh cũng say
khá kịch liệt, anh cởi phăng ngay áo ngoài, và mình trần, quần cộc, anh chạy ra
sân, nhảy tùm xuống Hồ Tây mà bơi ào ào, như một thể thao gia có hạng.
Ở
dưới nước, cách bờ tới dăm chục thước, anh lớn tiếng nói vọng lên: “Các tửu đồ!
Có hứng, thử nhảy xuống hồ này vùng vẫy chơi cho mát! Tức thì tôi cũng nhẩy đại
xuống hồ theo Nhất Linh, và trong cơn say bừng bừng da thịt, tôi cũng rẽ sóng
mà bơi thục mạng, mắt nhắm mắt mở nhằm hướng Nhất Linh mà bơi... Còn cách nhau
chừng dăm thước, và cách bờ ngoài ba chục thước, Nhất Linh thách thức: “Tôi với
anh bơi thi từ đây vào bờ, xem ai thắng” ?
Cố
nhiên tôi ra sức thi đua liền. Lời thách thức của Nhất Linh đã có hiệu quả
khích cho tôi trở về bờ, trong khi đó anh vẫn bơi kèm sát theo tôi, đề phòng bất
trắc. Cả hai về gần tới bờ cùng một lúc. Nhất Linh cố ý bơi thụt lại, để kém
tôi nửa sải tay. Thạch Lam và Huyền Kiêu đứng dưới gốc liễu, cùng nâng cao lỵ
rượu, và cùng… đổ rượu xuống Hồ Tây, cả hai đồng thanh nói giọng say nhè: “Hay
lắm! Thưởng cho kẻ nào về nhất cả hai ly rượu vừa rồi”.
Chúng
tôi đặt chân lên bờ. Nhất Linh khoát cánh tay tôi dìu vào trong nhà, ân cần lấy
khăn tắm cho tôi lau khô mình, và giúp tôi mặc quần áo, đúng như một người anh
cả săn sóc cho đứa em hư… Trước khi ngã lăn ra giường và ngất lịm đi, tôi còn
nhớ mang máng: Cả Thạch Lam và Huyền Kiêu cũng nẳm thẳng cẳng bên cạnh tôi như
hai cái tử thi, trong lúc anh Nhất Linh lúi húi lấy vôi lần lượt bôi vào gan
bàn chân cả ba người. Bên tai tôi vẳng tiếng chị Thạch Lam nói: “Đúng mười một
cái vỏ chai Văn Điển”.
“TRƯỚC
THỀM BÓNG LIỄU XANH…”
Trở lại vụ “bơi
thi” của nhà văn Nhất Linh và nhà thơ Đinh Hùng ở Hồ Tây trước nhà Thạch
Lam, thật may mắn cả hai bình an vô sự.
Nhà văn Thạch Lam sinh ngày 7/7/1910 tại ấp Thái Hà,
huyện Hoàn Long tỉnh Hà Đông nay là phố Thái Hà, quận Đống Đa, Hà Nội. Sau khi
kết hôn, vợ chồng ông được chị gái là Nguyễn Thị Thế nhường lại căn nhà nhỏ ở làng Yên Phụ. Căn nhà của Thạch Lam ở ngay
khúc đầu làng Yên Phụ soi bóng xuống Hồ Tây. Nhà mái tranh, cổng gỗ, Thạch Lam
từng nói với bạn bè ông muốn giữ nguyên như vậy dù có đủ khả năng lợp mái ngói,
xây tường gạch. Nhưng Thạch Lam đã trồng thêm một cây liễu. Về căn nhà của Thạch
Lam nhà thơ Huyền Kiêu, một người bạn của
ông, viết:
Tây
Hồ có danh sĩ
Nhà
thì ở nhà tranh
Cửa
trúc cài phên gió
Trước
thềm bóng liễu xanh…
Ngôi nhà của tác giả “Hà Nội băm sáu phố phường”
tuy nhà tranh nhưng ngăn nắp sáng sủa, có cửa kính lẫn cửa chớp, thềm cao, với một khoảng sân nhỏ mấp mé ngay
bờ hồ. Trong nhà có bộ bàn ghế thô sơ bằng mây, mấy cái bát da lươn đựng nước
chè xanh, trên tường vài bức tranh tĩnh vật. Vào mùa Hè, sóng Hồ Tây vỗ đều đều
vào ba phía móng nhà, làn gió nhẹ vuốt ve mái tóc rủ dài của cây dương liễu. Thạch
Lam vô cùng yêu quý cây liễu.
Quang
cảnh Hồ Tây những năm 1940. Ảnh Tư liệu về chùa Trấn Quốc
Hồi ký bà Nguyễn Thị Thế chép, dù sắp chết mà Thạch
Lam vẫn còn lo cho cây liễu. “Sáng hôm ấy
sang thăm, thấy hai mắt chú sáng trong. Tôi ngồi xuống cái ghế cạnh giường, nắm
tay chú, bàn tay ấm và mềm. Chú bảo chị đẩy em lên cao một tí để em nhìn thấy
cây liễu, chú phàn nàn anh người nhà đem chặt đi mất một cành liễu rủ xuống làm
mất đẹp. Tôi biết chú vốn quý cây liễu ấy lắm, nhưng không ngờ lúc đau ốm gần kề
cái chết mà vẫn còn để ý đến vẻ đẹp thiên nhiên, như vậy chú còn ham sống yêu đời
lắm...”
Tại ngôi nhà ở Yên Phụ, Thạch Lam đã sống một phần đời
có lẽ sôi động nhất, cởi mở phóng túng nhất. Cũng theo hồi ký của nhà thơ Đinh Hùng thì một năm trước
khi ông mắc bệnh lao rồi từ trần, bên cạnh ông quy tụ khá đông anh em văn hữu.
“Trong
căn nhà có liễu rủ trước thềm họ thường họp mặt nhau hàng ngày, nhiều khi thâu
đêm suốt sáng, và sóng nước Hồ Tây cũng đã từng phen hòa cùng sóng rượu giao
tình, nổi cồn men say ngây ngất. Hình như ngọn lửa hào hứng trong lòng Thạch
Lam, tựa ngọn đèn trước khi tắt, chợt bừng sáng lên mãnh liệt một lần cuối
cùng, khởi sắc và linh động khác thường, ánh sáng tràn đầy sinh khí và tỏa rộng
tinh anh, hấp dẫn như toát ra một điện lực kỳ lạ, khiến bè bạn gần anh hồi đó đều
nhận thấy anh như sống thoát hẳn cái bản ngã trầm mặc cố hữu”.
Trước đó Thạch Lam rất thận trọng trong việc giao du.
Bè bạn của ông có thể đếm trên bàn tay. Thỉnh thoảng mới có người tìm đến cái
nhà cạnh bờ Hồ Tây, phần nhiều cũng trầm lặng như chủ, những người có thề ngồi
im hàng giờ bên bàn nước chè đạt tới cái thuật “đối diện đàn tâm” như các bậc
túc nho.
Thạch Lam qua đời ngày 28/6/1942, bởi chứng bệnh lao
hiểm nghèo. Sau khi Thạch Lam chết, gia đình nhà văn Nhất Linh mua lại căn nhà ở
Yên Phụ và phá đi, xây một ngôi nhà gạch nhỏ nhưng vẫn giữ lại
cây liễu.
Tự Lực văn đoàn đã tập hợp các bài phóng bút, văn ngắn
của Thạch Lam in thành tập Hà Nội băm sáu phố phường. Đọc Hà Nội băm sáu phố
phường cho nhiều cảm xúc vì Thạch Lam không chỉ viết về món ăn mà vượt lên nó để
phản ánh xã hội, chia sẻ thân phận con người. Cho đến ngày hôm nay, Hà Nội băm
sáu phố phường vẫn là tập sách gối đầu của không ít người. Và cụm từ “36
phố phường” được nhiều người coi như để chỉ khu vực phố cổ. Cũng từ tập
sách này đã sinh ra hiện tượng: người ta thi nhau viết về Hà Nội, viết nhiều về
các món ăn và thể loại tùy bút phát triển.
Năm 2008 một người con gái Thạch Lam từ Mỹ về thăm
quê. Dù khi ở Yên Phụ bà chỉ là cô bé nhưng bà cũng trở lại nơi đây như muốn
tìm lại dấu xưa, nơi cha mẹ bà và bạn bè của gia đình từng có những ngày tháng
vui buồn bên Hồ Tây. Cho đến ngày hôm nay không ai biết người ta đã chuyển mộ
Thạch Lam đi đâu vì nghĩa trang Hợp Thiện xưa đã dần biến thành phố thị.
Theo Nguyễn Ngọc Tiến (Thể Thao & Văn Hóa)
*
“CÓ
NGƯỜI TRI KỶ, CÓ BÌNH RƯỢU NGON”
(*)
Rượu Văn Điển là loại rượu đóng chai duy nhất ở miền Bắc được chính phủ bảo hộ
cấp phép. Thập niên 1930, chỉ có rượu chai Văn Điển 30 độ mới cạnh tranh được với
rượu chai Phông-ten của chủ Pháp. Phông-ten bán 16 xu thì Văn Điển bán có 14
xu. Chủ nhà máy rượu Văn Điển còn mời nhà thơ Tản Đà làm thơ sau đó cho in vào
nhãn.
Ai
về đường ấy thì đi
Ta
về Văn Điển công ty với mình
Có
non, có nước hữu tình
Có
người tri kỷ, có bình rượu ngon
Không
chỉ in thơ vào nhãn, chủ nhà máy còn nhờ Tản Đà làm thơ để in trong lịch 365 tờ.
Tờ lịch ngày 30 tết năm 1933 có câu:
Mâm
cao, cỗ lớn linh đình
Không
rượu Văn Điển cũng hình như không
Nguồn:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét