Đền
thờ Trần Hưng Đạo tại Kiếp Bạc, Hải Dương. Ảnh: Trịnh Sinh
“BINH
THƯ YẾU LƯỢC” CỦA TRẦN HƯNG ĐẠO BÀN VỀ PHÉP HÀNH QUÂN
Trịnh Sinh
Hưng
Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là vị tướng đại tài trong lịch sử dân tộc. Ông không
những có công đuổi giặc Nguyên Mông ra khỏi bờ cõi nước ta, mà còn là một nhà
văn kiệt xuất với áng văn bất hủ “Hịch tướng sĩ” (nguyên văn chữ Hán là Dụ Chư
Tỳ tướng hịch văn) làm nức lòng quân dân Đại Việt trong lúc thế giặc mạnh như
chẻ tre.
Vào năm 1284, Thoát Hoan chỉ huy quân Nguyên Mông xâm
lược nước ta đã chiếm được ải Chi Lăng, quân ta phải lui binh về Vạn Kiếp. Vua
Trần Nhân Tông đã phải mời Trần Hưng Đạo đến để hỏi ý kiến nên đánh hay nên
hàng: “Thế giặc to như vậy, mà chống với
chúng thì dân chúng bị tàn sát, nhà cửa bị phá hại, hay là trẫm sẽ chịu hàng để
cứu muôn dân?”. Trần Hưng Đạo đã quyết tâm chiến đấu: “Bệ hạ nói câu ấy là lời nhân đức, nhưng tôn miếu xã tắc thì sao? Nếu bệ
hạ muốn hàng, xin trước hết hãy chém đầu thần đi đã, rồi sau hãy hàng”. Nhờ
đó mà Trần Nhân Tông cũng quyết tâm cùng quân dân đi đến cùng của cuộc chiến chống
Nguyên Mông lần thứ hai và thắng lợi. Cũng một phần nhờ tài năng của Hưng Đạo
Vương Trần Quốc Tuấn mà quần tụ được 20 vạn quân sĩ ở Vạn Kiếp và khích lệ quân
sĩ bằng “Hịch tướng sĩ”. Trong dịp
này, Trần Hưng Đạo cũng viết sách “Binh
thư yếu lược” để cho quân tướng của mình biết các binh pháp đối phó với giặc.
Cuối cùng, quân ta đã đại thắng trong cuộc chiến lần thứ hai.
Tuy vậy, bộ sách này hiện nay không còn nguyên bản. Một
bản “Binh thư yếu lược” viết tay bằng
chữ Hán, lưu trữ ở Viện Thông tin khoa học xã hội được cho là nội dung gần giống
với bản gốc, nhưng cũng còn gây ra tranh luận vì nhiều đoạn khá giống với “Hổ trướng khu cơ” của Đào Duy Từ; một số
đoạn lại cho thấy sách này có nói đến những sự kiện của thời đầu Nguyễn. Dẫu
sao, đây cũng là di sản của binh pháp cổ đại Việt Nam, mà người viết đầu tiên
chính là Trần Hưng Đạo, sau đó có sự “tam
sao thất bản” hay thêm thắt vào cũng là vấn đề khoa học cần được giám định
dài lâu.
Một trong những chương quan trọng có tên là “Hành quân” nằm ở quyển II trong bộ sách
4 quyển của Trần Hưng Đạo, giúp cho chúng ta hình dung được cách hành quân xưa.
Trước tiên, phải có đội du binh (mà ngày nay gọi là lính trinh sát), mỗi đội
phái ra mỗi đạo 9 người, chia làm 3 nhóm cách nhau ước một tầm trông (tức là vẫn
còn trông được thấy nhau). Sai người lên cao mà quan sát hay leo cây mà trông
thấy rõ quân địch nhiều hay ít, chuyển về kíp báo. Đến ngày xuất quân, chọn giờ
lành, lấy tù và thổi 3 hồi thì quân cầm khí giới, 1 tiếng chiêng thì quân bày
hàng ngồi, đánh 3 tiếng trống thì đứng dậy, đánh 3 tiếng la đồng thì dựng cờ, 3
tiếng trống lớn thì đi. Tiếng trống đánh thưa thì đi thong thả, đánh mau thì đi
nhanh, đến nơi dừng nghỉ thì đánh 3 tiếng rất gấp.
Đến điểm dừng thì trống điểm 2 tiếng gấp, quân đi trước
dừng lại, đánh 6 tiếng thì quân đi sau đến hết. Điều này chứng tỏ người xưa
dùng âm thanh của các nhạc khí như tù và, chiêng, trống, la đồng để làm hiệu lệnh
cho cuộc hành quân. Khi quân đi, mỗi toán cách nhau khoảng 1 tầm tên bắn. Quân
đi theo hàng đôi mà tiến. Khi gặp địch thì dùng cờ để bày trận: Tiến quân thì cờ
đỏ, tả quân cờ xanh, hữu quân cờ trắng, trung quân cờ vàng, hậu quân cờ đen. Việc
dùng cờ để bày trận cũng là một đặc điểm giúp cho chỉnh tề hàng ngũ khiến ba
quân như một người. Quân đi một ngày 30 dặm thì nghỉ để ngừa sự chẳng ngờ. Khi
dừng thì vững như núi không thể chuyển, khi tiến thì nhanh như gió không thể
theo.
Cách hành quân có trật tự như vậy đã chứng tỏ lính Đại
Việt là một quân đội có kỷ cương, được học binh pháp. Cùng với sự tài giỏi cầm
quân của Trần Hưng Đạo thì kinh nghiệm nhiều năm phải đối phó quân đội phương Bắc
đã đúc rút được nhiều bài học quý báu, khiến cho đội quân thiện chiến Nguyên
Mông phải tan tác. Binh thư giúp cho quân đội nhà Trần đánh giặc có bài bản
hơn. Nhưng nhiều khi cách đánh đầy sáng tạo của quân dân ta cộng với sự quả cảm
của một quân đội từ nhân dân mà ra mới là quan trọng nhất mà không một cuốn
binh thư nào dạy hết nhẽ, đã làm nên các chiến công hiển hách.
Tranh
dân gian Đông Hồ vẽ Trần Hưng Đạo. Ảnh: Trịnh Sinh
Năm 1300, khi Trần Hưng Đạo bị bệnh nặng, vua Trần Anh
Tông đến thăm ông tại Vạn Kiếp và hỏi kế sách giữ nước. Ông đã dặn dò: “Đại khái quân giặc cậy vào trường trận,
quân ta cậy vào đoản binh, đem đoản binh đánh lại trường trận là việc thường
trong binh pháp. Nhưng cần phải xét: Nếu thấy quân giặc tràn sang như gió, như
lửa, thì thế giặc có thể dễ dàng chống cự được; nếu giặc dùng cách chiếm cứ dần,
như tằm ăn dâu, không vơ vét của dân, không mong đánh được ngay, thì mình phải
dùng tướng giỏi, phải xem xét tình thế biến chuyển như người đánh cờ tùy thời
cơ mà ứng biến cho đúng, làm thế nào thu hút được quân lính, như cha con một
nhà mới có thể chiến thắng được. Và phải khoan dùng sức dân để làm cái kế sâu rễ
bền gốc, đó là thượng sách giữ nước không còn gì hơn”.
Người giỏi về binh pháp, lại biết được cách dùng sức
dân làm cái kế sâu rễ bền gốc, đã là vị anh hùng được người Việt tôn vinh qua
câu tục ngữ “Tháng Tám giỗ cha (Trần Hưng
Đạo mất vào tháng Tám), tháng Ba giỗ mẹ” và có đền thờ ở khắp nơi trên đất
nước Việt Nam.
Giáo sư Trịnh Sinh
Nguồn:
http://www.bienphong.com.vn/binh-thu-yeu-luoc-cua-tran-hung-dao-ban-ve-phep-hanh-quan/
http://www.bienphong.com.vn/binh-thu-yeu-luoc-cua-tran-hung-dao-ban-ve-phep-hanh-quan/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét