Nguồn:
https://usvietnam.uoregon.edu/vi/2019/11/27/alexandre-de-rhodes-va-su-tuong-tuong-ve-lich-su-can-dai-cua-nen-su-hoc-viet-nam/?fbclid=IwAR0FFflok2L4KV0VHhyeOPGCeRDdWh1xRklsnPm2Z6LmzdKGIE2Oe_VUHj4
Alexandre
de Rhodes Ảnh: Internet
ALEXANDRE
DE RHODES VÀ SỰ TƯỞNG TƯỢNG VỀ LỊCH SỬ CẬN ĐẠI CỦA NỀN SỬ HỌC VIỆT NAM
Tác giả: Khôi Nguyễn
(Đại học Oregon, Hoa Kỳ)
(Đại học Oregon, Hoa Kỳ)
Gần đây, thành phố Đà Nẵng muốn lấy tên Alexandre de
Rhodes để đặt tên đường phố. Một số trí thức, trong đó có nhiều người giảng dạy
lịch sử trong môi trường đại học, viết thư phản đối, cho rằng Alexandre de
Rhodes là một nhà truyền giáo mang tư tưởng thực dân, là kẻ có tội với Việt
Nam. Lá thư của họ khiến cho thành phố Đà Nẵng rút lại ý định.
Tuy vậy, những người phản đối ấy hoàn toàn dựa theo những
niềm tin có tính tưởng tượng về Alexandre de Rhodes nói riêng và hình ảnh “Tây
phương” nói chung, được kiến tạo từ trước 1975 ở miền Bắc.
Bài viết này nhắc lại một cách ngắn gọn những tưởng tượng
về lịch sử ấy để gợi mở cho chúng ta suy nghĩ về sử học, giáo dục và chính trị
đương đại.
Năm 1971, Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, trong quyển
“Lịch sử Việt Nam”, tập 1, trang 304, trích dẫn lời Alexandre de Rhodes thể hiện
một âm mưu có tính thực dân của mình:
“Đây là một vị trí cần được chiếm lấy và chiếm được vị
trí này thì thương gia Âu châu sẽ tìm được một nguồn lợi nhuận và tài nguyên
phong phú”
Uỷ ban này chú thích rằng câu trích này được trích từ
sách “Divers voyages et missions en Chine et autres royaumes de l’Orient” (Những
cuộc hành trình và truyền giáo ở Trung Quốc và các vương quốc khác ở phương
Đông) của Alexandre de Rhodes [Paris, 1653, tr. 109-110].
Tuy vậy, người ta không thể tìm thấy câu nói ấy trong
tài liệu nói trên.
Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam là một định chế nghiên
cứu cấp quốc gia. Vị thế của nó bảo đảm cho uy tín học thuật của nó. Thành ra từ
đó, người ta cứ trích dẫn và lan truyền niềm tin lệch lạc như vậy về Alexandre
de Rhodes mà không cần kiểm tra lại. Từ lâu, những nhà nghiên cứu như Vương
Đình Chữ (1996), Nguyễn Đình Đầu (2006) đã chỉ ra lỗi trích dẫn này của Ủy ban
Khoa học Xã hội Việt Nam. Nhưng niềm tin ấy vẫn chưa mất. Lá thư phản đối đặt
tên đường của nhóm “trí thức” nói trên là một ví dụ.
Cũng trong sách này, Alexandre de Rhodes nói đến việc
xin nước Pháp cung cấp nhiều “soldats” để “chinh phục toàn cõi phương Đông, đem
về quy phục Chúa Jesus”. Cao Huy Thuần coi từ “soldats” là “binh lính” quân sự,
từ đó kết tội Alexandre de Rhodes mở đường cho thực dân xâm lược Việt Nam, dù
nhà truyền giáo ấy chết trước cuộc xâm lược ấy đến hai trăm năm, còn Nguyễn Khắc
Xuyên coi “soldats” không phải là “binh lính” theo nghĩa đen mà chỉ “chiến binh
Phúc âm”, tức giáo sĩ truyền đạo. Số người hiểu theo cách hiểu của Cao Huy Thuần
đông hơn hẳn cách hiểu của Nguyễn Khắc Xuyên, các cuộc tranh luận, đúng hơn là
cãi vã, về nghĩa của từ “soldats” hầu như không đặt từ này trong toàn bộ văn bản
của “Hành trình và truyền giáo” để xem tinh thần thực sự của khái niệm cũng như
của sách này là gì, có liên quan đến việc đánh chiếm thuộc địa hay không.
Trí tưởng tượng nói trên về Alexandre de Rhodes sở dĩ
khó có thể nhạt phai vì nó nằm trong một tưởng tượng khác, lớn hơn, về lịch sử
cận đại. Tưởng tượng về lịch sử cận đại này cũng do Ủy ban Khoa học Xã hội Việt
Nam, từ tiền thân của nó là Ban nghiên cứu Văn Sử Địa, xây dựng nên từ giữa thập
niên 1950, sau khi Đảng Lao động Việt Nam (tức Đảng Cộng sản Việt Nam) lấy được
miền Bắc.
* TƯỞNG TƯỢNG VỀ THẾ KỶ 19
Tôi có làm “phỏng vấn” nhỏ một số bậc thức giả, bao gồm
cả những người nghiên cứu và giảng dạy lịch sử, một câu hỏi duy nhất: Trước thế
kỷ 20, cuộc xâm lược cuối cùng của Trung Quốc đối với Việt Nam là cuộc xâm lược
nào? Trong sự kiện ấy, ai là tổng chỉ huy của quân đội Trung Quốc? Ai là người
đánh bại đội quân xâm lược đó?
Hầu hết người được hỏi đều trả lời: Đó là cuộc xâm lược
của Mãn Thanh thời hoàng đế Càn Long vào năm 1789, chỉ huy đội quân xâm lược là
Tôn Sĩ Nghị, người đánh bại đội quân xâm lược đó là hoàng đế Quang Trung.
Chỉ có một học giả duy nhất trả lời đúng: Cuộc xâm lược
cuối cùng là vào thế kỷ 19, thời Từ Hy thái hậu của Mãn Thanh, chỉ huy đội quân
xâm lược là Phùng Tử Tài, còn người đánh bại cuộc xâm lược đó của Trung Quốc
là… thực dân Pháp.
Tại sao hầu hết những người am tường sách vở ở Việt
Nam mà tôi có dịp được hỏi lại hoàn toàn không nhớ gì về cuộc xâm lược trong thế
kỷ 19 này của Trung Quốc? Vì nó hoàn toàn bị xoá khỏi lịch sử. Nó không được dạy
trong chương trình sử ở cả bậc đại học lẫn trung học.
* CÂU CHUYỆN BỊ LÃNG QUÊN: NƯỚC ĐẠI NAM TRƯỚC HAI “GỌNG
KÌM LỊCH SỬ” PHÁP - MÃN THANH
Cuối thế kỷ 19, Việt Nam đối diện với hai siêu cường,
Pháp và Mãn Thanh, một bên đến từ phương Tây, mang theo nền văn minh của chủ
nghĩa tư bản, một bên là thiên triều ngàn năm vẫn đang chìm đắm trong ảo giác
mình là trung tâm của thế giới.
Ngay sau khi Pháp lấy Nam Kỳ, Mãn Thanh cũng lập kế hoạch
đánh chiếm miền Bắc. Mãn Thanh quyết tâm đánh chiếm Bắc Kỳ vì Việt Nam đã suy yếu,
nhằm bảo vệ mô hình thiên triều - chư hầu ngàn năm, còn Pháp quyết lấy nốt phần
còn lại. Hai bên tất yếu bước vào một cuộc đụng đầu lịch sử, dần dần đi đến chỗ
đánh nhau ác liệt ngay trên lãnh thổ Việt Nam, qua một loạt trận đánh như Sơn
Tây, Bắc Ninh, Hưng Hóa, Tuyên Quang năm 1883.
Mãn Thanh đã quyết tâm đến mức dốc tổng lực đánh bại
Pháp trên đất liền, chiếm toàn bộ vùng trung du phía Bắc, áp sát khu vực đồng bằng
sông Hồng. Thủ tướng Pháp phải từ chức. Nhưng quân Pháp lật ngược thế cờ bằng
cách mở ra chiến trường trên biển, đánh chiếm đảo Đài Loan và huỷ diệt Bắc
Dương hạm đội của Mãn Thanh ở Phúc Châu.
Mãn Thanh ban đầu thấy chỉ khả thi khi đặt mục tiêu giữ
lại vùng Bắc Kỳ, nhưng khi phải ký vào Hiệp ước Thiên Tân 1885, Mãn Thanh buộc
chấp nhận mất toàn bộ chư hầu Việt Nam.
Hiệp ước Thiên Tân 1885 giữa Pháp và Mãn Thanh đã tạo
ra một bước ngoặt lịch sử cho cả Mãn Thanh và Việt Nam.
Nếu như việc phải nhượng địa Hong Kong cho nước Anh chỉ
khiến Mãn Thanh thức tỉnh về khả năng kỹ thuật của phương Tây nhưng vẫn giữ vững
niềm tin vào hệ thống “thiên triều - chư hầu”, thì đến khi mất chư hầu Việt Nam
vào tay Pháp, ý thức hệ và cấu trúc “thiên triều - chư hầu” của họ bị đánh tận
gốc rễ. Việc Mãn Thanh không thể giữ Việt Nam trong cấu trúc “thiên triều - chư
hầu” đã khiến Nhật Bản, lúc này đã trở thành một cường quốc, quyết định giành lấy
một chư hầu khác của Mãn Thanh là Triều Tiên. Mãn Thanh tiếp tục mất Triều Tiên
trong cuộc chiến Nhật - Thanh 10 năm sau đó.
Từ đó, việc cấu trúc và ý thức hệ “thiên triều - chư hầu”
bị sụp đổ toàn diện trong thế kỷ 19 trở thành một trong những nội dung chủ yếu
của ý niệm “thế kỷ ô nhục” trong chủ nghĩa dân tộc Trung Hoa hiện đại.
Còn ở Việt Nam, do cuộc chiến Pháp - Thanh ảnh hưởng
quá lớn đến số phận Việt Nam, nên dù xoá cuộc chiến này khỏi sách giáo khoa lịch
sử cho học sinh phổ thông, ngày nay, các sử gia ở Hà Nội vẫn phải dạy học sinh
về một số điều liên quan đến cuộc chiến ấy: đội quân Cờ Đen của tướng Mãn Thanh
là Lưu Vĩnh Phúc và Hiệp ước Thiên Tân 1885.
Pháp
– Thanh ký Hiệp ước Thiên Tân 1885 Ảnh: Internet
Đó là sự kiện không thể không dạy. Quân đội Lưu Vĩnh
Phúc của Mãn Thanh đã lập hai chiến công là giết hai chỉ huy của Pháp trong hai
trận ở Cầu Giấy, còn Hiệp ước Pháp - Thanh 1885 thì mở ra trang sử mới của Việt
Nam. Nhưng, nói về Lưu Vĩnh Phúc và Hiệp ước Pháp - Thanh mà lại không nói gì về
cuộc chiến tranh quyết định quyền kiểm soát Việt Nam của hai nước Pháp - Thanh
này, các sử gia của chúng ta đã cho học sinh phổ thông học một bức tranh lịch sử
cận đại theo kiểu… Pháp xâm lược Việt Nam, rồi đột nhiên Mãn Thanh xuất hiện ký
một hiệp ước quyết định số phận chúng ta.
Lưu Vĩnh Phúc vốn là quân Thái Bình Thiên Quốc, bị triều
đình Mãn Thanh đánh bại, chạy sang Việt Nam làm thổ phỉ, gây ra vô số tội ác
cho dân chúng. Triều đình Huế không thể đánh dẹp, phải nhờ Mãn Thanh đánh giúp.
Khi triều đình Mãn Thanh cử quân đội vào Việt Nam để đụng đầu với Pháp, quân đội
triều đình Mãn Thanh đã thâu nạp luôn đội quân thổ phỉ Lưu Vĩnh Phúc, ban cho
phẩm hàm triều đình, thay vì tiêu diệt nó.
Sách giáo khoa lịch sử lớp 7 hiện nay ở Việt Nam dùng
khái niệm “quân ta” để gọi Lưu Vĩnh Phúc. Lối giáo dục này bắt đầu từ hơn 70
năm trước, khi sử gia Trần Văn Giàu và Trần Huy Liệu ở Hà Nội bắt đầu xây dựng
bức tranh “lịch sử cận đại”. Lưu Vĩnh Phúc có tờ hịch kêu gọi binh lính của
mình đánh Pháp, trong đó, đoạn đầu tiên, ông nói rõ mục đích của cuộc chiến: Việt
Nam là chư hầu của Mãn Thanh, nay Pháp sang chiếm mất chư hầu của ta, ta và
Pháp là kẻ thù không đội trời chung.
Sử gia Trần Văn Giàu làm gì khi trích dẫn bài hịch này
vào bộ sử “Bắc Kỳ kháng Pháp”? Ông cắt bỏ đoạn mở đầu thể hiện rõ ý thức hệ và
mục đích chiến tranh của họ Lưu. Nhờ thế, sử gia họ Trần dễ dàng gắn huân
chương “tình hữu nghị chiến đấu của hai dân tộc Việt - Trung” cho Lưu Vĩnh
Phúc.
* LỊCH SỬ CỦA SỰ PHÂN ĐÔI PHẢI / TRÁI
Xóa bỏ cuộc xâm lược của Mãn Thanh và cuộc chiến Pháp
- Thanh vào thế kỷ 19, các sử gia miền Bắc xây dựng thế kỷ 19 theo mô hình phân
đôi: một bên là thực dân Pháp xâm lược, nhà Nguyễn hèn nhát hàng giặc, một bên
là “dân tộc” anh hùng kháng chiến chống ngoại xâm. Trên cái nền bức tranh phân
đôi con người làm hai tuyến, bên trái là “xâm lược phương Tây” và bên phải là
“nhân dân anh hùng”, người ta lần lượt điêu khắc các nhân vật lịch sử sao cho
ăn khớp với bức tranh ấy: Alexandre de Rhodes dĩ nhiên thuộc bên trái bức
tranh, phong trào văn thân (vốn không có ý niệm về lòng ái quốc mà chỉ chống
người theo đạo Thiên Chúa giáo để bảo vệ hệ thống phong kiến nơi họ có thể tìm
thấy vị trí xã hội của mình) được xếp vào bên phải.
Vẽ bức tranh thế kỷ 19 theo cách ấy, các sử gia của Viện
Sử học ở Hà Nội từ thập niên 1950 dễ dàng tiếp tục vẽ bức tranh của giai đoạn
tiếp theo như cách chúng ta thấy trong các giáo trình “Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam” ngày nay: “nhân dân” tuy anh hùng nhưng không có đường lối đấu tranh đúng
đắn, liên tục thất bại cho đến khi Đảng Cộng sản ra đời, mang về Việt Nam vũ
khí tối tân là con đường cách mạng vô sản. Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân vật
trung tâm của bức tranh. Lịch sử quốc gia thế kỷ 20 được đồng nhất với lịch sử
Đảng.
Cách học ấy bắt đầu từ giữa thập niên 1950, đến nay đã
kéo dài khoảng 4 thế hệ.
* PHỤC HỒI KÝ ỨC?
Cuộc chiến Pháp - Thanh và sự thất bại của Việt Nam
khi bị kẹt giữa hai siêu cường ấy đã được sử gia hiện đại đầu tiên của Việt
Nam, Trần Trọng Kim, phân tích kỹ lưỡng trong “Việt Nam sử lược”, bộ sách giáo
khoa lịch sử đầu tiên của nước Việt Nam, xuất bản vào 1919 - 1920. Cuốn sách đã
bị cấm ở miền Bắc sau 1954 và toàn quốc sau 1975. Nếu chấp nhận phục hồi ký ức
về cuộc xâm lược của Mãn Thanh và cuộc chiến Pháp Thanh thế kỷ 19, chúng ta sẽ
phải chấp nhận bức tranh thế kỷ ấy như người cha của nền sử học Việt Nam đã khắc
họa một cách khách quan: Đó là thế kỷ mà Việt Nam bị mắc kẹt vào hai gọng kìm
Pháp - Thanh, bị giằng xé giữa hai mô hình “chư hầu của thiên triều phương Bắc”
và “thuộc địa của thực dân phương Tây”, bị buộc phải lựa chọn giữa hai con đường
“Tây phương hóa” hay “tiếp tục nằm trong vòng ảnh hưởng của vùng văn hoá chữ
Hán”.
Trần
Trọng Kim,
người cha của sử học hiện đại Việt Nam, 1883-1953
Điều đó có nghĩa là bức tranh lịch sử từ đầu thế kỷ 20
cũng cần được vẽ lại toàn bộ. Trong bức tranh này, vị trí của các lực lựợng
chính trị, các phong trào xã hội, các vấn đề thuộc phạm vi tinh thần như lịch sử
tư tưởng, văn hoá, văn học nghệ thuật… cũng sẽ được tái định vị một cách căn bản.
Năm 1987, sử gia Nhật Bản Tsuboi Yoshiharu xuất bản cuốn
sách “Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa”, phân tích thế kỷ 19, trọng
tâm là thời Tự Đức, như là thời đại Việt Nam mắc kẹt giữa hai siêu cường. Cuốn
sách được các học giả Nguyễn Đình Đầu, Bùi Trân Phượng, Tăng Văn Hỷ, Vũ Văn
Kính dịch ra tiếng Việt và Trần Văn Giàu là người viết lời giới thiệu. Trần Văn
Giàu đã đánh giá cách tiếp cận của Tsuboi là “mới mẻ” mà “quên” mất rằng, cách
hiểu ấy về thế kỷ 19 đã ra đời ngay từ đầu thế kỷ 20, trước sử gia Nhật Bản ấy
đến bảy thập niên, trong “Việt Nam sử lược”, cuốn sách mà chính các sử gia kiêm
chính trị gia ở Hà Nội đã cấm đoán từ thập niên 1950 để độc quyền một cách kể
chuyện lịch sử duy nhất.
Nhận thức về lịch sử (trả lời câu hỏi “chúng ta đến
đây từ đâu và như thế nào?”) và lựa chọn chính trị (trả lời câu hỏi “chúng ta
làm gì bây giờ?”) chỉ là hai mặt của một tờ giấy. Hiểu theo cách đó, như ta thấy
qua câu chuyện phản đối đặt tên đường cho Alexandre de Rhodes nói trên, những lựa
chọn của người Việt Nam hôm nay vẫn chìm đắm trong một màn sương mù của tư duy
được định hình từ giữa thế kỷ trước bởi Ban nghiên cứu Văn Sử Địa.
Lãng quên bài học thất bại khi đối diện yêu cầu lịch sử
phải lựa chọn giữa Pháp - Thanh với tư cách là hai mô hình, hai thế giới, Việt
Nam ngày nay tiếp tục đối diện câu hỏi ấy một lần nữa.
Khôi Nguyễn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét