Nhà
Hà Nội học Nguyễn Ngọc Tiến lược khảo về một hoạt động tưởng như chẳng “nên
thơ” chút nào: Môi trường và vệ sinh công cộng ở Hà Nội. Nhưng đó lại là những
bài học hết sức quý báu từ hàng trăm năm để lại.
KÝ ỨC THĂNG LONG: VỆ SINH MÔI TRƯỜNG, BÀI TOÁN NGÀN NĂM
CÁC
QUAN PHẢI TRỒNG RAU, TRỒNG HOA…
Làng giấy dó Yên Thái xưa bị ô nhiễm nặng
KÝ ỨC THĂNG LONG: VỆ SINH MÔI TRƯỜNG, BÀI TOÁN NGÀN NĂM
Nguyễn Ngọc Tiến
Thời Lý, do đê thấp chỉ như các bờ bao ruộng nên năm
mưa to kéo dài xảy ra lũ lụt, có năm nước tràn cả vào cửa Đại Hưng (nay tương ứng
với khu vực Cửa Nam) gây ngập lụt. Trong kinh thành phải đi lại bằng thuyền,
ngoài đồng trắng nước, trâu bò bị chết nổi lềnh phềnh. Vua Lý Thái Tông đã ra
chỉ dụ cấm dân chúng không được ăn thịt trâu bò chết. Đại Việt sử ký toàn thư
chép: “Lý Thái Tông cấm ăn thịt súc vật
trương nước” và bắt dân chúng “phải
chôn để tránh hậu họa cho xã tắc”.
Thời nhà Trần, dù đã cho đắp đê cao hơn nhưng những
năm mưa lớn, ngập lụt vẫn xảy ra ở nhiều nơi và theo gương triều Lý, các vua Trần
cũng ra chỉ bắt dân chúng phải chôn xác động vật chết.
Ngay sau khi đánh thắng giặc Minh, Lê Lợi vào thành
Thăng Long năm 1428 và lên ngôi vua. Việc đầu tiên ông làm là chia đất cho các
quan, bắt họ phải trồng rau để cải thiện đời sống vì sau chiến tranh cuộc sống
thiếu thốn, bắt trồng hoa và cây cảnh để tạo không khí “thơm tho và thanh bình” cho Thăng Long. Nguyễn Trãi lúc này ở ven
sông Tô Lịch và vườn nhà ông trồng đủ các loài hoa. Những việc làm đó nói theo
ngôn ngữ thời nay chính là hành động bảo vệ môi trường sống.
Năm 1883, thực dân Pháp chiếm trọn tỉnh Hà Nội, sau đó
lập thành phố Hà Nội thuộc Pháp năm 1888. Chính quyền bảo hộ đã lên kế hoạch xây
dựng Hà Nội thành thành phố theo kiểu của phương Tây. Họ cải tạo và làm đường
quanh hồ Hoàn Kiếm song vẫn giữ lại cây xanh ở các làng quanh hồ như cây đa
trong trường Hồ Đình (nay là báo Nhân Dân), cây muỗm trước cổng đình Nam Hương
(hiện cây muỗm này đối diện với khách sạn Apricot phố Hàng Trống) hay các cây
me (đối diện trụ sở Công an quận Hoàn Kiếm).
Trong cuốn hồi ký của toàn quyền Paul Doumer có một
chuyện thật mà như đùa, chính quyền thuộc địa cho phá tường thành Hà Nội vì…
môi trường. Họ cho rằng những bức tường thành đã cản trở sự lưu thông của khí
trời đến mức những người châu Âu cư trú trong đó phải chịu đựng sự ô nhiễm độc
hại. Chính Paul Doumer cũng đã tán thành: “Nếu
đúng như vậy thì sự lo lắng đến sức khỏe con người đã vượt qua mọi thứ khác
trong những xứ nhiệt đới, nơi mà quá nhiều nguy hiểm đe dọa vậy thì chúng ta
cũng không nên tiếc hành động đã làm”.
Sự thực không khí Hà Nội thời đó quá trong lành vì cuốn
Choses & Gens En In Indochine 1898-1908 thống kê, đầu thế kỷ 19, chỉ riêng
khu vực phía Đông thành phố có tới 404 hồ lớn nhỏ.
Tuy nhiên Paul Doumerr cũng nuối tiếc: “Chỉ có điều đáng buồn cho nghệ thuật và lịch
sử”.
SỐ
PHẬN AO HỒ VÀ NHỮNG DÒNG SÔNG
Chính quyền thực dân cho quy hoạch lại khu phố cổ.
Theo quy hoạch, các nhà làm mới phải thẳng hàng như chỉ giới, cấm làm nhà lá ở
nhiều tuyến phố để phòng hỏa hoạn. Họ cũng bắt các hộ phải làm nhà vệ sinh
trong nhà, không được phóng uế ra hồ ao. Nhà phải có hệ thống thoát nước thải đổ
ra hệ thống thoát nước của thành phố đang xây dựng. Trên phố, chính quyền bắt đầu
trồng cây xanh để tạo bóng mát.
Nhị
Hà quanh Bắc sang Đông
Kim
Ngưu, Tô Lịch là sông bên này
Hà Nội có nghĩa là thành phố trong sông và cũng là
thành phố sông hồ. Về địa lý, Hà Nội cao ở phía Bắc thấp dần về phía Nam nên nước
thải sinh hoạt ở khu phố cổ và một vài nhà máy của các chủ tư bản Pháp thải ra
đã chảy xuống hồ ao, song cũng không gây ô nhiễm vì quy mô nhà máy thuốc lá (ở
đầu đường Yên Phụ), nhà máy rượu (ở Hàng Than), nhà máy dệt (ở chợ Bắc Qua) quá
nhỏ.
Tuy nhiên trong quá trình phát triển, dù chính quyền
giữ nguyên hai lá phổi của thành phố là hồ Hoàn Kiếm và hồ Tây song họ đã lấp hồ
Cổ Ngựa, Thái Cực (còn gọi là hồ Hàng Đào) và các hồ phía Nam để xây chợ Đồng
Xuân, họ đã lấp đoạn sông Tô Lịch (từ sông Hồng chảy vào hồ Tây) nên hệ thống
thoát nước tự nhiên không còn tác dụng.
Đầu thế kỷ 20, hồ Hoàn Kiếm đã bị ô nhiễm, vì thế
chính quyền phải làm cống ngầm từ hồ ra sông Hồng để mùa mưa, nước sông chảy
vào hồ làm giảm ô nhiễm.
Với khu phố Tây (phía Nam hồ Hoàn Kiếm), chính quyền bắt
buộc chủ đất khi xây nhà phải tuân thủ chiều cao quy định, phải trồng cây xanh
trong khuôn viên.
Cũng đầu thế kỷ 20, người Pháp đã ý thức xây dựng Hà Nội
là thành phố văn minh khi cho xây nhiều nhà vệ sinh công cộng. Thay dần hố xí
thùng bằng hố xí tự hoại. Khi nước thải từ các phố ở phía Bắc đổ vào Hồ Gươm, họ
đã làm cống nối với sông Hồng, lấy nước sông hòa loãng nước hồ ô nhiễm.
Trong suốt thời Pháp thuộc, dù vấn đề môi trường vẫn
còn những việc chưa giải quyết được như: nước thải sinh hoạt và nước mưa chung
một hệ thống lại cho chảy ra các hồ, hố xí thùng vẫn chiếm đa số gây ô nhiễm mỗi
khi nhân viên đi đổi thùng... song cơ bản môi trường Hà Nội khá trong lành.
Tuy nhiên ở vùng sát nội thành nhưng lại thuộc quản lý
của tỉnh Hà Đông thì lại khác. Ô nhiễm diễn ra ở các làng nghề, đặc biệt là
làng làm giấy dó Yên Thái. Sau khi nấu dó và kéo giấy xong, dân làng đổ nước bọt
xuống sông Tô Lịch, nước sông đã hòa loãng chất thải rồi cuốn đi. Cuối thế kỷ
19, Tô Lịch bị lấp, đoạn qua Yên Thái thành sông chết, dân ngâm cây dó khiến nước
đen ngòm. Rồi đoạn sông này cũng bị lấp, các hộ làm giấy đổ xuống ao làng. Mùi
hôi thối bốc lên nên dân làng gọi ao đó là ao Bựa.
Năm 1958, miền Bắc xây dựng các khu công nghiệp. Hàng
loạt nhà máy mọc lên phía Tây Nam Hà Nội: Cơ khí Hà Nội, Cao su Sao Vàng, Thuốc
lá Thăng Long và Nhà máy Xà phòng Hà Nội (còn gọi là khu Cao - Xà - Lá). Phía
Nam có Nhà máy dệt 8-3, Cơ khí Mai Động và sau đó thêm Xí nghiệp dệt nhuộm, Chỉ
khâu, Dệt khăn mặt khăn tay... Các nhà máy, xí nghiệp này xả thẳng nước thải
công nghiệp ra sông Kim Ngưu và Tô Lịch gây ô nhiễm đoạn cuối hai con sông này.
Ở nội đô, dân số tăng lên đã kéo theo lượng nước thải
sinh hoạt nhiều hơn cũng gây ô nhiễm nhẹ nhưng không quá nghiêm trọng. Bằng chứng
là hàng ngày, con trẻ nuôi cá cảnh ra các cống thoát nước vớt giun, ra ao hồ vớt
thủy trần về cho cá ăn. Nếu ô nhiễm nặng thì những sinh vật này sẽ không sống
được. Nguyên nhân là khu vực nội đô ít cơ sở sản xuất; mặt khác thời bao cấp,
cuộc sống khó khăn, thiếu thốn thực phẩm nên trong nước thải ít chất hữu cơ.
Nhưng do ao tù, hồ tù quá nhiều nên mùa Hè năm
1973-1974, muỗi sinh nở nhiều đến mức buổi tối vợt tay qua mặt cũng bắt được
vài con. Dù buông màn xô nhưng không hiểu sao muỗi cũng vẫn vào được. Thế nên
nhà nhà phải sắm đèn dầu bắt muỗi. Những con muỗi no máu không bay nổi đậu một
chỗ, lúc đó chỉ cần dí bóng đèn vào muỗi sẽ tự rơi xuống.
Thời bao cấp, Hà Nội đã làm được nhiều việc cho môi
trường tương lai là xây dựng công viên Tuổi Trẻ và Vườn thú Thủ Lệ. Hai công
trình này có hồ nước, cây xanh, vừa làm điểm vui chơi giả trí cho dân vừa tạo cảnh
quan, làm môi trường thành phố ngày hôm nay xanh thêm. Tuy nhiên, công trình lớn
nhất giai đoạn này có ý nghĩa về môi trường là nạo vét sông Tô Lịch. Với sự
giúp đỡ vật chất của Liên hợp quốc và công sức của hàng nghìn người dân thủ đô,
trong năm 1977, con sông có tuổi đời hàng nghìn năm đã thông dòng chảy, ô nhiễm
do rác thải giảm đáng kể.
Vấn đề nghiêm trọng nhất thời bao cấp chính là vệ sinh
công cộng. Mật độ dân số đông trong khi quá ít nhà vệ sinh công cộng và các nhà
vệ sinh này không được quan tâm nên mới sinh ra chuyện “tường đè” (tiểu tiện bừa
bãi).
*
QUÉT
ĐƯỜNG TRƯỚC NHÀ
Để
quản lý đô thị Hà Nội, chính quyền thời Pháp thuộc đã ban hành “Quy chế về trị
an và lục lộ của thành phố”, trong đó, điều 1 quy định: “Chủ nhà và người thuê
hàng ngày phải dọn dẹp quét phần đường công cộng phía trước nhà”; điều 2:
“Nghiêm cấm không được chăn thả gia súc để trâu bò ăn ở trên đường công cộng
cũng như dắt đàn gia súc trên phố từ 7 đến 11 giờ sáng và từ 5 đến 8 giờ tối...”,
nếu vi phạm sẽ bị xử theo điều 471, 472, 473, 474 bộ Luật Hình sự nước Pháp.
Một
sự kiện khác liên quan đến môi trường và bệnh tật ở Hà Nội chấn động tới cả nước
Pháp thời bấy giờ, đó là thông tin trong những kiện hàng của Ấn Độ chở bằng tầu
biển đến Hà Nội dự triển lãm Kinh tế Đông Dương năm 1902 có chuột. Chiến dịch
diệt chuột này, chúng tôi sẽ đề cập đến trong số báo tuần tới.
Theo Nguyễn Ngọc Tiến
(Thể Thao &Văn Hóa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét