HỒNG
NHAN...
Ngô Hương Thủy
Sãi không chỉ nổi tiếng với bánh bèo mụ Thí, nem lụi mụ
Năm mà Sãi còn được thiên hạ biết đến qua nhan sắc của cô Lý xóm Hậu Kiên. Mấy
ông trên Tòa Hành chánh Tỉnh cuối tuần xuống Sãi nhậu thường trầm trồ “Đẹp ác liệt!”; xóm giềng thì thầm “Cha mẹ cú đẻ con tiên”; có mụ đàn bà
nhiều chuyện còn xa gần “Biết mô con ai
đem bỏ chùa nầy?”
Sãi là một vùng đất thơ mộng hiền hòa nằm bên con sông
Vĩnh Định. Không biết thời Chúa Nguyễn Hoàng chọn Quảng Trị làm thủ phủ có bà
Phi nào lạc loài trong dân gian không mà con gái Sãi phần lớn nhan sắc thuộc loại
trên trung bình. Nổi nhất là gái xóm Hà, gái xóm chợ Cổ Thành … Nhưng tất cả đều
thua cô Lý Hậu Kiên. Thấy cô Lý từ xa, gái đẹp đã tìm cách né kèm theo một cái
nguýt dài tám thước - nếu đo được-.
Nói đừng tự ái chớ một thời nhà vệ sinh là khái niệm
xa lạ với phần đông dân Sãi. Con nít thì khỏe. Kêu chó tới “chóc chóc” là xong. Người lớn xuống dưới biền, nói khéo là “đi sông”. Ai lịch sự hơn thì xách một
cái cuốc lui sau vườn. Cái ăn mới là chuyện lớn!!!
Quốc sách Ấp chiến lược ra đời, Tỉnh trưởng đi kinh
lý. Để tạo bộ mặt khang trang cho nông thôn mới và cũng để đánh bóng tên tuổi với
thượng cấp, quận cho xây một cái nhà vệ sinh trên đám đất rộng cuối làng Hậu
Kiên, phục vụ cho đầu ra của làng. Không người Sãi nào chịu phụ trách bán vé
tháng và quản lý nhà cầu. Chuyện này ngày xưa dành cho thằng mõ, giai cấp cùng
đinh. Cho dù thời buổi tiến bộ, cấp trên đã phong tước “nhân viên vệ sinh” cũng không ai thèm làm. Mãi sau cùng có một người
tình nguyện. Lâu dần, không ai gọi là nhà vệ sinh như cái bảng sơn xanh trang
trọng bên trên. Người ta gọi là “Cầu xia
ông Chác”. Mà oái oăm thay, ông Chác là cha cô Lý!
Ông Chác không phải là người địa phương. Người có chữ
nghĩa gọi là “dân ngụ cư”. Ông xuất
hiện ở làng Hậu Kiên từ sau hiệp định Geneve chia đôi hai miền Nam Bắc, một vợ
ba con. Cô Lý lúc đó đang ẳm ngữa là con đầu. Đẻ sinh đôi hai đứa sau thì bà vợ
chết vì băng huyết.
Đọc văn Nam Cao, người ta ấn tượng với khuôn mặt của
Chí Phèo, khuôn mặt mà cả làng Vũ Đại phải tránh vì vừa dữ vừa xấu. Nhưng nếu
có cơ hội so sánh với ông Chác, có khi Chí Phèo còn đẹp trai hơn! Các bà mẹ thường
đem ông Chác ra dọa khi con mếu máo. Trẻ con sợ ông như sợ cọp. Các ông, các bà
tự xếp mình vào đẳng cấp “danh giá”
tránh tiếp xúc với ông Chác như sợ “mùi cầu xia” bám vào mình. Lâu dần, nhà ông
Chác như biệt lập với xóm. Người đã nghèo, lại xấu, lại ít nói, lại làm cái nghề
“hạ tiện” !!!
Nhưng lạ thay cô Lý con ông lại đẹp, một cái đẹp không
cần đến sự hỗ trợ của son phấn. Da cô trắng như bông bưởi. Hai hàng lông mi
cong vút khỏi cần maccara. Con mắt đen nhánh dưới chân mày cong lá liễu. Đôi
môi hồng tự nhiên của tuổi đôi tám… Con gái đẹp nhìn cô còn ganh tị huống chi
các chàng trai đương tuổi rạo rực yêu đương!
Ở Sãi, con gái mới lớn đã có người mối mai nhưng cô Lý
hai mươi vẫn chưa có người dạm ngỏ. Lý do đơn giản: người ta dị ứng với cái
nghèo, cái nghề “giữ cầu xia” của ông
Chác! “Lấy vợ xem tông lấy chồng xem giống”.
Chung quanh ông Chác, nhiều người cũng nghèo, thậm chí còn nghèo hơn nhưng họ vẫn
tự hào xem mình thuộc đẳng cấp cao hơn thằng “quét cầu xia”!
Vậy nên ngoài hai mươi, cô Lý vẫn “ế”! Và đó cũng là nguyên nhân khiến miền gái đẹp vừa ganh tỵ vừa
coi thường cô Lý.
Cô Lý bán nón ở chợ Cổ Thành. Hàng của cô khuất trong
một cái hốc nhưng vẫn có nhiều khách. Loại khách thứ nhất là những o, những mệ
vì cô Lý thuộc hạng khéo tay trong nghề chằm nón. Vừa bán, vừa chằm, cô có thể
làm xong một cái sau phiên chợ sáng. Nhìn ngón tay cô thoăn thoắt chằm nón, nức
nón ngó thấy mê. Cô lại khéo ở khâu lựa lá, ủi lá, xây vành nên nón của cô rất
bền. Những cô gái ganh tỵ nhan sắc của Lý không bao giờ đến hàng cô nhưng vẫn đội
nón cô Lý do mạ họ chọn mua. Loại khách thứ hai đến không phải để mua nón mà chỉ
để “nghễ” cô Lý theo lời đồn. Đó là
những công chức Tòa Hành Chánh trên Tỉnh, những anh lính Bảo An và có cả những
thầy giáo được xếp vào thành phần “trí thức
danh giá” của địa phương. Ai cũng nắc nỏm trước cái đẹp nhưng rồi ai đến
cũng chỉ để nhìn. Chẳng phải người xưa đã dạy “Tốt danh hơn lành áo” đó chăng? Trong số người ngắm có thầy giáo
Hoàng…
Thầy Hoàng cũng không phải là người địa phương. Thầy ở
tận trong Thành Nội Huế. Tốt nghiệp trường Sư phạm, thầy được bổ nhiệm ra dạy tại
quận Triệu Phong. Mặt mày sáng sủa, ăn mặc lịch sự, truyền thống “tôn sư trọng đạo” của người Quảng Trị
khiến đẳng cấp thầy cao chót vót. Thầy được mời trọ trong một căn nhà ngói
khang trang, ăn riêng với chủ nhà là một ông Ấp trưởng ở nhà trên, ra đường mỏi
miệng mỏi cổ trước những cái cúi đầu trân trọng của dân làng.
Thầy Hoàng cũng là người có tư tưởng tiến bộ. Bằng cớ
là thầy đến hàng cô Lý không chỉ một lần dù đã nghe nói về cái nghề “gác cầu xia” của cha cô. Nhan sắc và sự
ngây thơ của cô Lý đã làm thầy rung động dù ban đầu thầy cũng có hơi chợn. Thầy
mượn cớ đặt nón cô Lý để đem vào Huế, cả gan đối địch với xứ sở của nón bài
thơ! Thầy đã làm ba bài thơ ca ngợi mỹ nhân. Và can đảm hơn tất cả những chàng
trai khác, thầy đã trao ba bài thơ ấy cho cô Lý.
Ý thức về thân phận khiến cô Lý không thể không e ngại.
Nhưng “mưa dầm thấm lâu”, sự kiên nhẫn
của thầy Hoàng đã khiến cô Lý mềm lòng và dẫn tới tình huống “Đôi bên cùng liếc đôi lòng cùng ưa”.
Nhưng họ cũng khôn khéo lắm trước dư luận người đời. Thầy Hoàng không ra chợ Cổ
Thành nữa. Họ hẹn nhau những đêm Ba mươi dưới gốc cây ngô đồng trên đường ra chợ
gần nhà ông Ba chuyên nghề làm kẹo xóc.
Tình yêu làm cô Lý ngày càng đẹp ra, những cái nguýt của
các cô gái khác bây giờ kéo dài cả mười thước. Thỉnh thoảng học trò nghe thầy
Hoàng huýt sáo trong giờ dạy. Một đoạn thơ “Kim
Trọng gặp gỡ Thúy Kiều” của Nguyễn Du mà thầy dạy hoài dạy mãi chưa xong vì
tâm đắc(!). Sự đoan trang của cô Lý, sự chuẩn mực của ngành mô phạm đương thời
nên hai người chỉ dám có những cái cầm tay, vuốt tóc suông. Nhưng với cặp đôi
đang yêu này, thế là quá đủ!
Bà Ấp trưởng- chủ nhà trọ- của thầy Hoàng cũng có hai
cô con gái đang ở vào lứa tuổi cập kê. Nhan sắc của cả hai đều xếp vào hạng dưới
trung bình - nếu không nói là xấu. Nhưng bà Ấp là người đàn bà có tầm nhìn xa.
Bà có cái tham vọng một trong hai con sẽ thành bà giáo danh giá trong tương
lai. Bà không thiếu tiền, vàng nhưng bà vẫn ý thức được con gái mình là người
nhà quê. Bà không biết câu triết lý của phương Tây “Tình yêu đi qua dạ dày” nhưng bà rút kinh nghiệm từ cuộc hôn nhân
với ông chồng. Người đàn bà xấu nhưng không đần này đã chiếm đươc ông Ấp trưởng
bảy chục kí lô nhờ vào ba xị đế và món bồ dục xào trứ danh!
Tiền cơm tháng thầy Hoàng đưa cho bà chủ cũng tương đối
như các bạn nhưng đồng sự của thầy thi thoảng ghé chơi thường xuýt xoa trước những
món ăn được dọn riêng cho ông chủ nhà và thầy giáo. Mùa đông có cá lúi kho khô
với một bụng trứng, mùa thu có chim mỏ nhát ướp ngũ vị hương chiên thơm phức,
mùa hạ có canh cải nấu cá rô ăn mát ruột, mùa xuân dĩa thịt gà luộc vàng như
nghệ… Chưa kể ăn xong còn có quả chuối lùn chín cây, miếng đu đủ ngọt ngào
tráng miệng. Cuối tháng vào Huế thăm mạ, bà già thường nắn bóp tay thầy Hoàng “Gạo Quảng Trị ngó bộ ngon hơn gạo Huế con
hè!”
Thầy Hoàng có hiểu thâm ý của bà Ấp trưởng không nhưng
ngó thầy vẫn cứ tỉnh bơ. Khi yêu, người ta chỉ biết tới người mình yêu! Tình
yêu lên cao càng tỷ lệ thuận với những cuộc hẹn hò. Bây giờ, thầy Hoàng với cô
Lý tăng cuộc gặp gỡ lên mỗi tuần một lần. Cứ chủ nhật, ăn tối xong, tắm rửa sạch
sẽ, chải brillantine láng mượt, thầy Hoàng huýt sáo ra khỏi nhà và chỉ trở về
trước nửa đêm…
Kinh nghiệm “chuyện
trai gái” cho bà Ấp biết rằng thầy Hoàng đang yêu. Nhưng yệu ai là một ẩn số.
Trường Triệu Phong chỉ có ba cô giáo nhưng một cô lớn tuổi góa chồng và hai cô
khác thì tay bồng tay mang. Bà Lý thắc mắc và ghen thầm cho con gái. Bà bỏ
không ít tiền trau chuốt cho hai con gà mái nòi nhưng thầy Hoàng ngó bộ chẳng
quan tâm. Bà quyết định…
Một đêm tối trời, bà Ấp lẵng lặng theo chân thầy
Hoàng. Chó ông Ba kẹo xóc gầm gừ đến quá canh ba…
Cũng đêm ấy, cô Lý đi quá giới hạn sau lời đinh ninh của
thầy Hoàng “Tuần sau mạ anh ra đi chạm ngỏ!”.
Trưa thứ hai, chào cờ xong, dạy thêm bốn giờ Văn, thầy
Hoàng mệt đứ đừ. Về nhà, thầy rửa mặt và ngồi vào bàn ăn như thường lệ. Chào hỏi
ông Ấp cho phải phép, thầy Hoàng đơm cơm vào bát. Cơm hôm nay có món lòng heo
chấm mắm nêm. Nếu có thêm ly rượu thì tuyệt cú mèo!
Nhưng miếng lòng heo chưa qua khỏi cổ thì thầy Hoàng
đã vội nhã ra. Miếng lòng còn nguyên mùi xú uế, mắm vừa mặn vừa hôi. Răng lạ ri
hè? Bà Ấp đủng đỉnh từ nhà dưới đi lên. Nhìn cái nhăn mặt của thầy Hoàng, bà la
vọng xuống nhà dưới: “ - Đứa mô ngu rứa
bây. Ăn cơm không thích cứ thích ăn c…”
Tuần sau, như lời hứa, thầy Hoàng đưa mạ ra Quảng Trị
dòm mặt cô Lý. Trước đó, thầy đã khéo léo làm công tác “Dân vận”: “Dâu mạ đẹp, đảm
đang, hiền lành, buôn bán giỏi. Mạ coi cái nón o nớ làm còn đẹp và chắc hơn nón
Huế…”. Mấy lâu ni, thấy thầy Hoàng đỏ da thắm thịt, coi bộ bà mạ cũng xuôi xuôi.
Quảng Trị với Huế cũng nỏ xa xôi, cách chừng sáu mươi cây số ngó cũng đặng. Miễn
là con nhà tử tế. Dù sao con bà cũng là thứ có ăn có học.
Đúng là một bà già Huế đi coi mặt con dâu. Bà mặc một
cái áo dài gấm vàng còn thơm phức mùi long não. Cái kiềng vàng cất tận đáy
rương được moi ra mang vào cái cổ khẳng khiu. Tay bà đeo thêm chiếc vòng hạt
huyền gia bảo. Miệng bỏm bẻm nhai trầu , hai mẹ con lên xe đò ra Quảng Trị rồi
đi xe lôi về Sãi.
Bà Ấp trưởng đón mẹ thầy giáo Hoàng thật nhiệt tình.
Bà sai bắt con gà mập ú nấu cháo, thịt xé phay. Bà bảo con gái trải chiếc chiếu
mới cho mạ thầy Hoàng nghỉ ngơi chờ ngày mai đi ra chợ Cổ Thành coi mặt cô Lý rồi
về chuẩn bị cau trầu. Bà ngọt ngào chị chị em em với bà già. Bà tâng thầy Hoàng
lên tận trời xanh với những lời nhận xét của hàng xóm: “Đẹp trai, dạy giỏi, khiêm nhường, ai tu bảy kiếp mới có con rể như rứa”…
Mạ thầy Hoàng nghe mà mát ruột mát gan. Ăn cơm tối xong, thầy Hoàng vội vã ra
chỗ hẹn dặn dò người yêu. Bóng thầy vừa khuất, bà Ấp cũng đưa mẹ thầy Hoàng đi
dạo mát mà bước chân hướng về “Cầu xia
ông Chác”.
Hôm đó nhằm đêm mười sáu, trăng sáng vằng vặc. Ông
Chác lấy ánh trăng thay đèn quét dọn nhà vệ sinh. Ông mặc cái quần cũ rách hai
đầu gối, đội chiếc nón cời theo thói quen, tay xách thùng nước, tay tê cầm cái
chổi cùn, mùi nhà cầu vương trong gió thum thủm. Gặp hai người đàn bà đi ngược
đường, ông ý tứ nép qua một bên nhưng mạ thầy Hoàng cũng kịp đưa tay che ngang
lỗ mũi. Chặp sau, bà Ấp trưởng buông nhẹ một câu: “Sui gia của chị đó nghe!”. Bà mạ thầy Hoàng sững sờ, ngó bộ chân
đi không nổi.
Thầy Hoàng vẫn chưa về. Hai bà rù rì trong giường suốt
đêm. Mặt mạ thầy Hoàng tím rịm như trái mùn quân. Sáng mai, mạ thầy Hoàng dậy
muộn. Thầy thay áo quần đi dạy. Gấp chi. Mạ còn ở cả tuần…
Sáng ni, cô Lý dọn hàng sớm dù đêm qua từ chỗ hẹn về
bóng trăng đã xế ngang đầu. Lòng cô hồi hộp, xốn xang. Anh ấy đúng là một người
quân tử “nói lời đã giữ lấy lời”. Cô
tưởng tượng ra vẻ mặt hiền hậu của người mẹ chồng tương lai. Rồi cô sẽ nấu cho
anh những bữa ăn thật ngon, rồi cô sẽ sẽ giặt ủi cho anh những bộ áo quần thẳng
nếp. Và cô cũng sẽ thật dịu dàng cho đúng với địa vị của một bà giáo, dù là bà
giáo nông thôn…
Một bóng người xuất hiện trước chồng nón. A, có người
mua mày xưa. Sáng ni ra ngõ gặp thằng cu Cường đứng đái đúng là may mắn. Cô hé
cặp môi hồng định nói câu chào thật dịu nhưng một tràng chửi rủa đã ập xuống mặt
cô. Bài chửi hay như một bài hát: “Bớ
làng dưới An Tiêm, làng trên Nhan Biều. Bớ xóm dưới Cổ Thành, xóm trên Cửa Hậu,
lại đây mà nghe tui chưởi…”
Chợ mới dọn, người đi chợ chưa đông, các mệ, các o,
các thím bán hàng xúm lại coi một bà già xa lạ đến ngoác mồm chửi cô Lý. Bà già
xĩa miếng trầu chửi tiếp: “Tổ cha cái đứa
dụ dỗ con trai nhà bà. Con yêu con quý con cầu con tự của tau gặp phải con thần
đanh mỏ đỏ, con thằng gác cầu xia…”
Da cô Lý tái ngắt. Cô đã biết người đang chửi là ai.
Cô nghẹn ngào cúi xuống lấy nón úp mặt. Bà già chửi tiếp: “Mi muốn sống làng ni thì mi liệu hồn mà buông mà thả con trai nhà tau.
Bằng không tau đào mả tam đại tứ đại nhà mi, bật săng ngũ đại thất đại nhà mi…”
Thiên hạ xúm lại vòng trong vòng ngoài. Tội cho cô Lý
không có lỗ nẻ mà chui xuống. Chưa hết, bà già lại véo von: “Hôm nay tau chưởi một bài. Ngày mai tau chưởi
đến hai bài liền. Nhà bà là giống công giống phượng, không ai thèm sui gia với
nhà thằng quét cầu xia…Mi còn theo con bà thì ngủ giường giường sập, ngủ võng
võng đứt…Nói cho nhà mi biết mà liệu thần hồn…”
Bà nhỗ toẹt bãi cốt trầu đỏ lòm xuống đất, ngoe nguẩy
bước đi trong tiếng bàn tán xôn xao của những người đi chợ. Đã có mạ con bà Ấp
trưởng hộ tống ở bên ngoài. Họ hả hê ra về với nụ cười chiến thắng.
Đêm hôm đó, cả nhà ông Chác bỏ đi khi nào không ai
hay…
Sáng ngày mai thầy Hoàng mới biết mọi chuyện xảy ra
qua lời kể của cô giáo đồng nghiệp. Thầy bỏ dạy chạy ra chợ thì hàng nón không
còn, qua nhà ông Chác thì “Trước sau nào
thấy bóng người”. Chạy xuống bến đò An Tiêm nghe ông Lái nói nhà ông Chác
đã qua sông lúc quá nửa đêm. Ông Lái cũng giao lại cho thầy Hoàng cái nón và
đôi guốc mà cô Lý để quên, đôi guốc Phi Mã sơn màu nâu mà thầy đã mua tặng cô
Lý trong một lần về Huế. Đôi guốc chưa vẹt gót, cái quai nón màu tím còn vương
mùi da thịt thơm nhè nhẹ, quen quen. Thầy Hoàng thất thểu ôm cái nón, xách đôi
guốc đi dọc bờ sông Vĩnh Định…
Bà Ấp trưởng gạt được cái gai trước mắt, tiếp tục chiến
dịch “cơm
gà cá gỏi” chinh phục ông thầy. Mạ thầy Hoàng ngọt nhạt lý lẽ trước sau để
thầy lấy con gái bà Ấp nhưng thầy câm lặng như cái xác không hồn. Học trò cũng
không bao giờ còn nghe thầy huýt sáo nữa. Mấy mụ nhiều chuyện phẩm bình “Đũa mốc mà chòi mâm son”, người hiểu biết
thì nhân ái hơn “Đúng là hồng nhan đa
truân”.
Cuối năm học, thầy Hoàng xin chuyển nhiệm sở. Thầy không
về Huế. Thầy xin về một ngôi trường xa xôi, hẻo lánh bên bờ phá Tam Giang tỉnh
Thừa Thiên. Ở đó không ai biết thầy và chuyện tình đau đớn.
“Cầu
xia ông Chác’’ không còn ai coi sóc dần bỏ hoang và
thành chỗ cho trâu bò ăn cỏ. Vã lại, đời sống cũng tiến bộ hơn, gia đình nào rồi
cũng có nhà vệ sinh.
*
Thầy Hoàng lúi húi bên bụi cỏ mực mới trồng ngày qua.
Cuối Đông, đầu Xuân đám hà thủ ô đã tàn chuẩn bị cho người lấy củ. Đằng xa,
giàn lạc tiên đang trỗ bông. Mùi cây thuốc Nam tỏa ra từ gian bếp nhỏ...
Sau năm 75, thầy bị nghỉ việc, “vô lương” vì hai từ “biệt
phái”. Mẹ già đã mất, thầy nhường căn nhà Thành Nội cho ông anh làm từ đường.
Một thân một mình cần chi nhà cao cửa rộng. Thầy mua hai sào đất, cất căn nhà
nhỏ gần chỗ dạy cũ, chuyển sang làm ông thầy thuốc Nam. Người xưa “Tiến vi quan, thối vi sư”, còn thầy tự
hào vì trước sau vẫn cứ là “thầy” qua
cách gọi thân quý của dân làng. Thú vui của thầy giờ đây là sưu tầm những cây
thuốc dân gian và chiều chiều bắt sâu nhổ cỏ cho vườn thuốc.
Không hiểu vì “mát
tay” hay nhờ cuốn “Y học bí truyền”
của ông Nội để lại mà thầy trở nên nổi tiếng. Xa xôi cũng có người tìm đến. Những
thang thuốc của thầy chắc chắn hơn những viên Xuyên tâm liên bệnh xá huyện phát
cho người bệnh uống từng nắm mà không thấy hiệu nghiệm.
Vuốt mái tóc hoa râm, vói tay đấm lưng mấy cái, thầy lững
thững đi vào nhà. Tô nước chè xanh ngan ngát hương thơm. Thầy thở một hơi dài
khoan khoái.
Tiếng chó sủa ngoài sân báo hiệu có khách. Khách quen
không ai đến giấc này, chắc chỉ là bệnh nhân.
Một thanh niên đang dìu người đàn bà bước qua khung cửa
hẹp. Ngó bộ người ốm đã lâu ngày, chân đi chập chững, chiếc khăn kẻ ô vuông che
nửa mặt. Uống cạn tô nước, thầy Hoàng lên tiếng:
- Chắc bà và em đến từ xa. Xin bà ngồi nghỉ rồi tôi sẽ
chẩn mạch.
Người đàn bà hơi rùng mình như có làn gió lạnh thổi
qua. Thầy Hoàng ý tứ khép cánh cửa và bật điện. Ánh sáng vàng vọt vừa đủ để soi
sáng căn phòng hai mươi mét vuông vừa làm phòng khách vừa làm phòng khám.
Chiếc tủ dài có nhiều ngăn kéo đựng các vị thuốc kê
sát vách. Trên tường treo bức tranh thủy mặc lớn vẽ dòng sông, con đò, bến nước…
Phía bên dưới, có treo một chiếc nón. Chiếc nón vàng úa, lá khô cong đẫm dấu vết
thời gian, vành nón có chỗ bung chỉ, quai nón bạc phếch. Và trên mặt tủ là đôi
guốc cũ vẹt gót, lỗi thời nhưng lại được trân trọng đặt trong một khung gỗ.
Người đàn bà nhìn sững bức tường, cổ phát ra một tiếng
rên nhẹ rồi ngồi bệt xuống cái ghế nhỏ. Anh thanh niên cuống quýt kêu lên :
- Má! Má!... Như không còn đủ sức lực, người đàn bà dựa
hẵn vào vai con.
Thầy Hoàng lau tay vào chiếc khăn sạch rồi nói với người
trai trẻ:
- “Chẩn mạch sáng sớm lúc âm khí chưa động,
dương khí chưa tán sẽ dễ thấy mạch bệnh hơn. Nhưng ngó bộ bà bệnh đã lâu, nghỉ
một chút cho khí huyết điều hòa rồi tôi sẽ chẩn bệnh, kê đơn, bốc thuốc”.
Người bệnh nằm trên chiếc giường nhỏ, cánh tay phải duỗi
ra, bàn tay để ngữa. Thầy Hoàng ngồi nghiêng, dùng tay trái chuẩn bị chẩn mạch.
Thầy xăn tay áo người bệnh lên, đặt ngón tay giữa vào bộ quan chuẩn bị ngón trỏ
và áp út thành ba bộ mạch… Bàn tay người đàn bà run run, sợi gân xanh phập phồng.
Giữa cổ tay, một cái nốt ruồi son lớn nhô lên, đỏ sẫm…
Thầy Hoàng chớp mắt, giương mục kỉnh cố nhìn cho rõ.
Cái mụt ruồi quen quen ngày ấy. Cái mụt ruồi độc đáo thầy hay sờ sẫm trong đêm
khuya. Cái mụt ruồi mà có lần thầy đã nói “Nhờ
nó, anh có thể tìm ra em trong vạn người”…
Thầy kéo mạnh cái khăn kẻ ô vuông che mặt người đàn
bà. Ôi, rõ ràng là khuôn mặt của cô Lý, người đẹp Hậu Kiên hơn hai mươi năm trước!
Qua bao thăng trầm vẫn còn đây vẻ duyên dáng dù “Mười phần xuân có gầy ba, bốn phần”.
Hai người ôm chầm lấy nhau trong sự ngỡ ngàng của người
con trai mang đường nét của thầy Hoàng thời trai trẻ.
Ngoài trời, mưa Xuân rơi nhè nhẹ. Cây mai giữa sân
đang chuẩn bị kết nụ đâm chồi.
Ngô Hương Thủy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét