BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Ba, 24 tháng 12, 2019

BÀI THƠ TỨ TUYỆT VÔ ĐỀ - Nguyên Lạc


             
                        Tác giả bài viết Nguyên Lạc


            BÀI THƠ TỨ TUYỆT VÔ ĐỀ
                                                                            Nguyên Lạc    

VÀI HÀNG TIỂU SỬ

1. HÒA THƯỢNG THÍCH TUỆ SĨ

 a.
- Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ tục danh Phạm Văn Thương sinh ngày 15 tháng 2 năm 1943 tại Paksé, Lào. Thầy quê tại Quảng Bình, Việt Nam, là một học giả uyên bác về Phật giáo, nguyên giáo sư thực thụ của Đại học Vạn Hạnh tại Sài Gòn, nhà văn, nhà thơ, dịch giả và là một người bất đồng chính kiến với Chính phủ Việt Nam. Ông hiện là Đệ nhất phó Viện trưởng Viện Hóa Đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. 
- Thầy thông thạo tiếng Trung Hoa, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Pali, tiếng Phạn và tiếng Nhật, đọc hiểu tiếng Đức. Thầy được giới học giả Việt Nam đánh giá cao vì đã công bố nhiều tiểu luận, chuyên khảo, thơ và nhiều công trình dịch thuật Phật giáo từ tiếng Phạn, tiếng Trung Hoa và tiếng Nhật. [Viết theo Wikipedia]


         
                                      Thiền sư Tuệ Sĩ

b.
TUỆ SỸ, MỘT THIÊN TÀI CỦA VIỆT NAM :
Thầy xuất gia từ thuở còn thơ và sống ở Lào, làm chú tiểu Sa Di sớm chiều kinh kệ, công phu bái sám, đó là bổn phận của người làm điệu, trong nếp sống nhà chùa. Bằng bản chất thông minh, thiên tư từ thuở nhỏ, cho nên sau khi xuất gia, Thầy đã miệt mài học hỏi kinh điển, siêng năng nghiên cứu nghĩa lý đạo mầu.  Quí sư Lào sau một thời gian dạy dỗ, thấy được trí tánh thông minh của Thầy, chư sư Lào tự thắy không đủ khả năng dạy nữa, để không làm mai một thiên tư trác việt, trí tuệ tuyệt vời, các vị Bổn sư Lào đã gởi Thầy về Việt Nam, cho quí Hòa thượng tiếp tục hướng dẫn, dạy dỗ.

Thầy được đưa về Huế, cùng tu học với quí chư Tăng và thành đạt sở học một cách nhanh chóng. Do vậy, sau một thời gian tham học với chư Tổ Đức về phần kinh luật và chữ Nho, Thầy đã thông suốt và tự mình phát huy sở học mà không cần thầy dạy. Từ đó, Thầy tiếp tục vân du tham học ở chư bậc kỳ tài, hữu danh đương thời, lần hồi Thầy đã vào Sài Gòn để tiếp tay xây dựng và giáo dục đàn em, học trò của mình. Là vị giáo sư gương mẫu, nồng cốt của Đại học Vạn Hạnh, mà cứ mỗi lần gặp nhau thăm hỏi, những người đồng nghiệp đều gọi Thầy là "chú Sỹ" vì Thầy còn quá trẻ.

Thầy phụ trách dạy tại Đại học Vạn Hạnh chương trình Triết học Tây phương, văn học Đông Phương, luận đề Phật giáo : triết học Tánh Không, Trung Quán luận, A Tỳ Đạt Ma, đại cương Thiền Quán... Mặc dầu ở vào lứa tuổi đôi mươi, nhưng Thầy đã đóng góp một phần không nhỏ trong nền văn hóa, giáo dục của nước nhà và Thầy đã xuất sắc hơn trong lãnh vực ngôn ngữ : sinh ngữ và cổ ngữ. Thầy tự học, rèn luyện lấy chính mình vì vậy mọi người ai cũng kính mến, thán phục và có nhiều bạn vong niên dưới mái trường Đại học Vạn Hạnh.
                                                          [Viết theo Thích Nguyên Siêu]

2. THI SĨ BÙI GIÁNG

Thi sĩ Bùi Giáng sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926 tại làng Thanh Châu thuộc xã Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.mất ngày 7 tháng 10 năm 1998 tại Sài Gòn. Ông  là nhà thơ, dịch giả và là nhà nghiên cứu văn học của Việt Nam. Các bút danh khác của ông là: Trung niên thi sĩ, Thi sĩ, Bùi Bàn Dúi, Bùi Văn Bốn, Vân Mồng...Ông nổi tiếng từ năm 1962 với tập thơ Mưa nguồn.
Ông là nhà trí thức lớn, là giáo sư đại học, là học giả, dịch giả, là triết gia, là thi sỹ, là phù thuỷ ngôn ngữ, là kẻ lãng du thiên tài không màng thế sự...

         
                              Thi sĩ Bùi Giáng


BÀI THƠ TỨ TUYỆT XƯA

Các bạn thơ chắc ai cũng biết bài tứ tuyệt rất nổi tiếng của Trương Kế (nhà thơ Trung Quốc, thời Đường Túc Tông). Đây là bài thơ.

PHONG KIỀU DẠ BẠC

Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hà San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
                                           Trương Kế

NỬA ĐÊM ĐẬU BẾN PHONG KIỀU

Trăng tà tiếng quạ kêu sương,
Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
                              Nguyễn Hàm Ninh dịch

(Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Hàm Ninh, thường bị nhầm là bản dịch của Tản Đà - Wikipedia)


BÀI THƠ TỨ TUYỆT NAY

Theo tôi, bài tứ tuyệt VÔ ĐỀ sau đây cũng hay không kém.
Lạ lùng thay, bài tứ tuyệt này được hai người nổi tiếng làm:  Đó là thầy Tuệ Sỹ và thi sĩ Bùi Giáng. Thầy Tuệ Sỹ làm hai câu đầu, Bùi Giáng tiếp theo hai câu cuối.
Đây là bài tứ tuyệt của hai người:


VÔ ĐỀ

 Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
 Hiện tiền vi liễu lạc hoa phi.  
                                     (Thầy Tuệ Sỹ)

 Phiêu bồng tâm sự, tân toan lệ, 
 Trí hải đa tàm, trúc loạn ty.          
        (Thi sĩ Bùi Giáng tiếp thơ)

Dịch thơ:

Tôi tạm dịch thoát như sau:

Đêm sâu bóng nghiệp theo làn gió
Rõ ràng làm lạc liễu hoa bay
Tâm sự nhẹ dâng cùng lệ khổ
Biển học thẹn lòng trúc tơ  xoay (*)
                              (Nguyên Lạc)

***
Tính nhân bản là một thuộc tính của thơ hay, nước nào cũng có, chỉ có trước hay sau thôi. Nước người có thì nước Việt chúng ta cũng có. Hãy trân trọng cái hay cái đẹp của tiền nhân, của đất nước.

                                                                                 Nguyên Lạc     
.................

Chú thích:

(*) -  Rừng trúc như tơ rối: không thâu đắc được.
                                                  (Trần Việt Long)

- Trí hải:  biển hiểu biết (biển học), nhưng cũng là Trí Hải, tên của một ni sư. Thi sĩ Bùi Giáng  muốn đùa giỡn với thầy Tuệ Sỹ

 [Có tham khảo các bản dịch: Hoàng Quốc Bảo, Trần Việt Long - trang art2all]

@ Phần phụ lục

1. Tuệ Sỹ

Sẵn đây, Nguyên Lạc xin giới thiệu thêm bài thơ KHÔNG ĐỀ của thầy Tuệ Sỹ làm sau này. Bài thơ này khác với bài thơ tứ tuyệt Vô Đề ở trên, gồm 3 khổ như sau:

KHÔNG ĐỀ

Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn

Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng

Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn 
                                               Tuệ Sỹ

2. Bùi Giáng

Nguyên Lạc cũng xin giới thiệu thêm bài dịch thơ G. Apollinaire của trung niên thi sĩ Bùi Giáng. Bài thơ dịch nổi tiếng này đã được nhạc sĩ tài hoa Phạm Duy phổ nhạc: "Mùa Thu Chết". Bài này rất nổi tiếng trong thập niên 70 tại Sài Gòn, và gắn liền với tên tuổi ca sĩ Julie Quang.

LỜI VĨNH BIỆT

Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng đựợc nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó…
                                         Bùi Giáng dịch

(“Ði vào cõi thơ”. Bùi Giáng, trang 80-82, nhà xuất bản Ca Dao, Sàigòn, Việt Nam.1969)

Nguyên tác:

L’ADIEU

J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends
                                     Apollinaire

Không có nhận xét nào: