Nguồn:
Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy
VỀ
MỘT NGƯỜI VIỆT NAM ĐI TÌM CÁC ẨN SỐ CHÍNH TRỊ TRONG TIỂU THUYẾT VÕ HIỆP KIM
DUNG
Cao Tuấn
Người
Việt Nam nói ở đây là ông Nguyễn Ngọc Huy, tác giả quyển sách “Các Ẩn Số Chánh
Trị Trong Tiểu Thuyết Võ Hiệp Kim Dung” xuất hiện ở Hải Ngoại vào khoảng 1985,
1986 nhưng tác phẩm này không được biết đến nhiều như các tác phẩm “chính thống”
khác của ông. Tuy vậy, theo thiển ý, đó là một tác phẩm đứng đắn, độc đáo, đáng
đọc và đáng suy nghĩ. Nếu ông Huy chứng minh
nhà văn Kim Dung, người Trung Hoa, có những hậu ý chính trị khi viết các
bộ tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng thì có thể chính ông Huy, một nhà chính trị Việt
Nam cũng có những thông điệp chính trị riêng khi bỏ thì giờ viết sách về Kim
Dung.
Có nhiều người viết về Kim Dung nhưng viết hẳn một quyển
sách công phu về riêng một khía cạnh - “ẩn
số chính trị trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung” - thì ông Huy là người duy
nhất.
Một câu hỏi đến tự nhiên: Tại sao một người lỗi lạc lại
bận rộn như ông Huy lại “mất công” với với loại truyện giải trí bình dân như thế?
Câu trả lời chỉ tìm thấy sau khi đã đọc xong quyển “Những
Ẩn Số Chánh Trị...” dầy 290 trang. Và câu trả lời có thể sẽ là như sau:
Mặc
dầu truyện võ hiệp nói chung bị xem là loại văn chương bình dân nhưng riêng với
Kim Dung ông Huy nhìn thấy hình ảnh của một đại văn hào có một sở học uyên bác
và óc tưởng tượng dồi dào - Những bộ truyện trường thiên của Kim Dung đều có thể
so sánh được với các bộ sách bất hủ của dân tộc Trung Hoa đã làm say mê cả người
bình dân lẫn người trí thức, người Việt Nam lẫn người Trung Hoa, với những ý
nghĩa triết lý hoặc các bài học chính trị, đạo đức tiềm ẩn như Tam Quốc Chí,
Đông Chu Liệt Quốc, Tây Du Ký... Nếu suy nghĩ khi đọc truyện Kim Dung người ta
có thể học được nhiều điều hữu ích..
(Xin
biết Kim Dung có Ph.D về Sử và chủ trương "dân trong nước PHẢI biết SỬ QUỐC
GIA,nhưng sử Trung Hoa quá nhiều, rắc rối,phức tạp,...để truyền bá theo lối từ
chương nên KD đã viết theo lối kiếm hiệp.)
Ông Huy nghiên cứu, quen thuộc với lịch sử, tư tưởng
và văn hoá Trung Hoa. Luận Án Tiến Sĩ của
ông ở đại học Paris viết bằng tiếng Pháp đã được chính ông dịch sang tiếng Việt
có đề tài “Người Ưu Tú Trong Tư Tưởng
Chánh Trị Trung Quốc Cổ Thời”. Tác phẩm của Kim Dung, vì thế, đã hấp dẫn
ông Huy một cách tự nhiên.
Ngoài sự kính nể của người trí thức đối với người trí
thức, nhà tư tưởng đối với nhà tư tưởng, ông Huy viết về truyện Kim Dung vì ông
cùng chia sẻ với nhà văn một số giá trị căn bản chung, vì thấy ở Kim Dung một
tâm hồn đồng điệu bất kể khoảng cách về không gian, thời gian hay chủng tộc. (Lẽ dĩ nhiên nói như thế không có nghĩa ông
Huy đồng ý hoàn toàn với những điều ông tìm thấy về tư tưởng của Kim Dung).
Tác phẩm của Kim Dung phong phú, đồ sộ và có thể
nghiên cứu, nhận định dưới nhiều khía cạnh. Ông Huy chỉ giới hạn, như đã nói,
vào một khía cạnh mà ông quan tâm hơn cả đó là “các ẩn số chính trị” trong tác phẩm. Ông đi tìm những ẩn số này bằng
khả năng phân tích và tổng hợp của một nhà khoa học chính trị, một người quen
viết nghị luận cũng như bằng tâm tư của một chính trị gia Việt Nam đang “trong gian truân cố chuyển lại cơ trời”,
luôn luôn suy nghĩ về những vấn đề của đất nước mình.
NHỮNG
“BÍ MẬT” CỦA KIM DUNG ĐÃ BỊ HAY ĐƯỢC “BẬT MÍ” THẾ NÀO ?
Để tránh những hệ luỵ rắc rối không cần thiết các tiểu
thuyết gia gần như luôn luôn xác định “tác
giả không có ý ám chỉ một nhân vật hay một sự việc có thật nào trong đời sống
cho nên mọi trùng hợp nếu có chỉ là ngẫu nhiên”. Kim Dung cũng không đi ra
ngoài thông lệ ấy khi tuyên bố “Nội dung
tiểu thuyết không tránh khỏi sự biểu lộ tư tưởng của tác giả nhưng không phải
tác giả cố ý đem nhân vật, sự tích cùng bối cảnh đến một lãnh vực tư tưởng hay
một chính sách (có thật) nào đó...Tiểu thuyết võ hiệp không liên quan gì đến tư
tưởng chánh trị, ý thức tôn giáo, khoa học trúng hay trật, đạo đức phải hay
trái...”
Lập trường “phi
chính trị” nhưng “nói để mà nói”
của Kim Dung đã không ngăn cản ông Huy đi tìm dụng ý chính trị của tác giả rải
rác trong các tác phẩm và ông đã tìm ra, đã
nhìn thấy một số dữ kiện có ý nghĩa chính trị. Các dữ kiện này vừa đủ số
lượng, vừa ăn khớp vào nhau để có thể đưa ra nhũng thông điệp về lập trường của
Kim Dung.
Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung, từ khi xuất hiện từ đầu
thập niên 1960s, trong khi làm mưa làm gió ở Hongkong, Singapore, Nam Việt Nam,
các nước Đông Nam Á trong giới Hoa Kiều hải ngoại thì tuyệt đối bị cấm cửa ở
Đài Loan và cả Hoa Lục ít nhất trong thời kỳ Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông
còn sống.
Cũng cần lưu ý đối chiếu thời kỳ Kim Dung viết truyện
Võ Hiệp ở Hong Kong bên cạnh lò lửa “Cách
Mạng Văn Hoá” ở Hoa Lục....với bối cảnh chiến tranh lạnh giữa hai phe Cộng
Sản và Tư Bản.
Trong phần kết luận của quyển “Các Ẩn Số Chánh Trị...” ông Huy cũng dè dặt nói thêm “không thể loại bỏ giả thuyết là sự trùng hợp
giữa các nhân vật và sự kiện trong tác phẩm của Kim Dung với một số nhân vật và
sự kiện có thật phát xuất từ nơi tiềm thức của tác giả chứ không phải là một sự
cố ý. Nhưng ngay trong trường hợp này, Kim Dung cũng không phải hoàn toàn vô
tâm, vì Kim Dung có nhiều ưu tư, nhiều chủ kiến ăn sâu trong tiềm thức thì các
tác phẩm viết ra mới biểu lộ các ưu tư và chủ kiến đó cho chúng ta thấy”
Đi vào chi tiết liên hệ đến các ẩn số chính trị trong
tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung ông Huy nhận thấy 2 loại dữ kiện:
- Một số
nhân vật đã được dùng để tượng trưng cho một vài quốc gia đặc biệt trên thế giới
hoặc để mô tả một vài chính khách nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc cận đại.
- Một số sự việc đã diễn tả quan điểm của Kim
Dung về vấn đề tranh đấu chính trị và một phần trong quan điểm này dựa vào triết
lý Đạo Giáo và Phật Giáo.
Ông Huy trình bầy những khám phá của ông một cách thứ
tự, lớp lang, dựa trên lý luận với rất nhiều chi tiết khá tỉ mỉ. Sau đây chỉ là
một số thí dụ về các ẩn số chính trị - xin nhắc lại chỉ là một số thí dụ tiêu
biểu có giá trị thuyết phục cao trong rất nhiều ẩn số mà ông Huy đã tìm thấy -
qua các truyện võ hiệp Kim Dung:
1..
Các nhân vật tượng trưng cho một số quốc gia đặc biệt trên thế giới.
Cuộc luận võ trên đỉnh Hoa Sơn được đề cập đến trong
các bộ Võ Lâm Ngũ Bá, Anh Hùng Xạ Điêu và Thần Điêu Đại Hiệp có mục đích xác định
vai tuồng bá chủ võ lâm. Cuộc luận võ đầu tiên và quan trọng nhất có 5 nhân vật
tham dự. Họ có ngoại hiệu là Trung Thần Thông, Đông Tà, Tây Độc, Bắc Cái, Nam Đế.
Sau cuộc tỷ thí rất gay go, mọi người đều công nhận rằng Trung Thần Thông là
người có võ công cao diệu hơn hết và được quyền giữ bộ Cửu Âm Chân Kinh. Những
người còn lại thì tài nghệ suýt soát nhau.
Ngoài ra, còn một nhân vật thứ sáu cũng được xem đồng
tài nghệ nhưng không tham dự cuộc luận võ này. Đó là bang chủ của Thiết Chưởng
Bang tên là Cừu Thiên Nhạn ngoại hiệu là Thuỷ Thượng Phiêu. Cừu Thiên Nhận có
người anh song sinh tên là Cừu Thiên Lý, võ công tầm thường, chỉ hay dùng xảo
thuật để loè bịp.
Trong một giai đoạn của cuộc luận võ hay luận kiếm Hoa
Sơn, năm nhân vật đầu tiên đã tỉ thí với nhau theo lối “ngũ quốc giao binh”, dịch
sát nghĩa là “năm nước tranh chiến với nhau” hàm ý Kim Dung muốn dùng các nhân
vật võ lâm để ám chỉ một số quốc gia. Vậy thì, nhân vật nào, quốc gia nào đây?
-
Nhân vật tượng trưng cho nước Tầu: Trung Thần Thông.
Trung Thần Thông là ngoại hiệu của Vương Trùng Dương.
Trung là ở ngay chính giữa. Tự ngàn xưa, người Tầu đã tự hào là họ sống ngay
chính giữa địa cầu (!). Họ đã chính thức gọi dân tộc họ là dân tộc Trung Hoa và
nước họ là Trung Quốc.
Về mặt tinh thần, người Trung Hoa theo đạo Trung Dung,
đạo của người quân tử lúc nào cũng đứng trong vị thế quân bình. Trong mọi việc
làm đều có thái độ thích ứng, vừa phải. Không thái quá, không bất cập. Người cố
gắng theo đạo Trung Dung thì sẽ trở thành sáng suốt, hiểu biết và có thể biến cải
để ứng phó vượt qua mọi trở lực, nói một cách khác sẽ trở thành Thần Thông.
Phái Đạo Giáo mà Trung Thần Thông đứng đầu là phái
Toàn Chân, có nghĩa là sự thật đầy đủ, trọn vẹn. Toàn Chân là môn phái có thật
trong lịch sử. Ngoài chủ trương riêng của Đạo Giáo, nó lại còn bao gồm đạo
Trung Hiếu của Nho Giáo và các giới luật của Phật Giáo và điều này đã mô tả
đúng tính cách tổng hợp của nền văn hoá Trung Hoa cổ truyền.
Tỷ thí tài nghệ để trở thành bá chủ võ lâm, tuy nhiên
Trung Thần Thông lại có bản chất ngược lại với tư tưởng bá chủ - lấy được Cửu
Âm Chân Kinh nhưng nhất quyết không dùng vì bí kíp võ học tuyệt tác này đòi hỏi
phương pháp luyện công quá âm độc, dị thường. Tư cách của Trung Thần Thông, tức
Vương Trùng Dương cho thấy cao hơn hẳn Đông Tà, Tây Độc và các nhân vật võ lâm
khác, càng chứng tỏ xứng đáng vai trò lãnh đạo, phù hợp với họ Vương, có nghĩa
là Vua, người đứng đầu thiên hạ. Đạo lý nhà vua phải theo để cai trị một cách
chính đáng, nhân nghĩa gọi là Vương đạo. Chủ trương chính trị Vương đạo là chủ
trương chính thức được đề cao trong sử sách Trung Hoa từ ngàn xưa.
Kim Dung là người Trung Hoa nên qua nhân vật Trung Thần
Thông Vương Trùng Dương hàm ý nước Trung Hoa có đủ khả năng và tư cách làm số 1
trên thế giới cũng là điều không đáng ngạc nhiên.
-
Nhân vật tượng trưng cho nước Nhật: Đông Tà.
Đông Tà là ngoại hiệu của Hoàng Dược Sư. Hoàng là mầu
vàng ám chỉ Nhật Bản cũng là dân da vàng.
Nhật Bản nằm về phía đông của Trung Hoa phù hợp với
ngoại hiệu Đông Tà của Hoàng Dược Sư. Đông Tà lại mặc áo mầu xanh, theo vũ trụ
quan của người Trung Hoa thì mầu xanh thuộc về hành mộc và liên hệ với phương
đông, nhấn mạnh thêm nước Nhật ở phía đông.
Căn cứ của Đông Tà là đảo Đào Hoa mà Nhật Bản là đảo
quốc và nổi tiếng thế giới là xứ hoa Anh Đào.
Đông Tà có tánh sợ lửa. Điều này ám chỉ các đảo Nhật
có nhiều núi lửa và thường bị động đất.
Bà vợ của Đông Tà có tên là Mai Hương. Mà hoa Mai lại
được người Trung Hoa xem là quốc hoa. Điều này có thể ám chỉ dân tộc Nhật có
liên hệ và chịu ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa.
Thân thế của Đông Tà còn tỏ rõ hơn nữa ảnh hưởng văn
hoá Trung Hoa rất sâu xa đối với nước Nhật - Đông Tà theo học võ với Châu Đồng..
Ông này cũng là thầy của Nhạc Phi, một danh tướng anh hùng Trung Hoa. Trước đó
Đông Tà là một thư sinh học theo Nho Giáo nên là người văn võ kiêm toàn. Đông
Tà thông thạo các thú tiêu khiển của người Trung Hoa là cầm, kỳ, thi, hoạ; nắm
vững mọi loại kỹ thuật Trung Hoa như y dược, bói toán, chiêm tinh, tướng số,
nông điền thuỷ lợi, binh lược...; biết thưởng thức các món ăn ngon, các thứ trà
quý của Trung Hoa...Tuy nhiên, Đông Tà lại thâm hiểu Đạo Giáo và hướng về sự
thanh tĩnh vô vi. Đông Tà cũng có một số đức tính tốt là cương trực, nói lời giữ
lời theo kiểu “quân tử nhất ngôn”, kính trọng các bậc trung thần, nghĩa sĩ, nhiều
khi ra tay giúp người yếu thế, trừng trị bọn tham quan ô lại, bọn trộm cướp hiếp
đáp dân lành.
Các đệ tử của Đông Tà đều mang tên Phong như Khúc Linh
Phong, Phùng Mặc Phong, Lục Thừa Phong, Trần Huyền Phong, Mai Siêu
Phong...Phong nghĩa là gió, giống như chữ Phong trong danh từ nổi tiếng của Nhật
là Thần Phong (Kamikaze) nguyên là danh từ dùng để chỉ trận bão lớn năm 1281 đã
đánh đắm các chiến thuyền của hạm đội Mông Cổ, cứu nước Nhật khỏi bị Mông Cổ thống
trị. Trong thế chiến thứ hai, Thần Phong là tên của đội phi công cảm tử tình
nguyện lao phi cơ chứa đầy chất nổ xuống các chiến hạm Mỹ và nổ tung với các
chiến hạm này - một cố gắng hi sinh tuyệt vọng nhưng rẩt anh hùng mang đặc tính
Nhật Bản.
Đông Tà tuy vậy không được Kim Dung coi là người theo
chính đạo mà là một nhân vật nhuốm đầy tà quái hàm ý người Nhật chịu ảnh hưởng
văn hoá Trung Hoa, nhưng chỉ theo một phần, rồi tìm cách biến chế và không cư xử
đúng theo quan điểm đạo đức của người (quân tử mẫu mực)Trung Hoa.
Đông Tà, tức nước Nhật, trong mắt Kim Dung đã TÀ như
thế nào?
Dựa vào Kỳ Môn Bát Trận của Khổng Minh để lập ra Phản
Kỳ Môn Bát Trận để bảo vệ đảo Đào Hoa. Cũng dựa vào nguyên tắc sinh khắc, âm
dương, ngũ hành, nhị thập bát tú và 64 quẻ kép của Bát Quái. Tuy nhiên trong trận
đồ của Đông Tà, vị trí của các quẻ lại ngược lại vị trí các quẻ trong trận đồ
Khổng Minh.
Thổi ngọc tiêu kích thích dục tình.
Thiếu tự chế - quá bi thương vì cái chết của vợ, gần
như điên cuồng khi tưởng mất con.
Ăn cướp, tống tiền nhà giầu để có phương tiện lập căn
cứ địa kiên cố, sang trọng. Dùng thủ đoạn xảo trá để đoạt Cửu Âm Chân Kinh.
Khi tức giận hai đệ tử phản bội đào thoát thì trừng phạt
các đệ tử vô tội và hết sức trung thành khác bằng cách cắt đứt gân chân của họ
rồi đuổi đi. Đâm mù mắt, chọc thủng tai các đầy tớ, gia nhân, vốn là các thành
phần tội phạm, để kiềm chế họ và giữ bí mật về mình.
Sự tàn ác, ích kỷ của Đông Tà ám chỉ nước Nhật sau khi
canh tân trở nên cường thịnh thì đi xâm lăng Trung Quốc và các nước khác cốt để
làm lợi cho riêng mình, trắng trợn tự xưng là Đế Quốc Nhật Bản, khác với lý tưởng
Vương đạo của người Trung Hoa - theo Kim Dung - “trị quốc” để dọn đường cho
“bình thiên hạ” tức là tiến tới “thế giới đại đồng”. Biến cố “The rape of
Nanking” năm 1937 gây kinh hoàng, chấn động thế giới khi quân Nhật chiếm thủ đô
Nam Kinh của Trung Hoa Dân Quốc, đã hãm hiếp và giết hại 300,000 người dân Tầu, thây chất như núi, máu
loang đỏ các sông ngòi, là một tội ác khó có thể nào quên.
-
Nhân vật tượng trưng cho các nước Đế Quốc Âu Châu : Tây Độc.
Tây Độc là một nhân vật kinh khủng, có lẽ còn đáng
ghét hơn cả Đông Tà, theo sự diễn tả của Kim Dung ám chỉ các nước đế quốc thực
dân Âu Châu đã sâu xé, dày xéo, bóc lột Trung Hoa và các dân tộc ở Châu Á, Châu
Phi, Châu Mỹ hàng trăm năm.
Tây Độc là ngoại hiệu của Âu Dương Phong. Âu là Âu
Châu. Âu Châu ở phía Tây của Trung Quốc. Người Âu Châu còn gọi là người Tây
Dương, hay người Tây Phương. Tây Độc Âu Dương Phong cũng xưng là Bạch Đà Sơn Chủ,
tức chúa núi Bạch Đà. Bạch là mầu trắng khiến liên tưởng đến người da trắng,
giòng giống... Bạch Quỷ (!).
Trái với nếp sống thanh tĩnh theo Đạo Giáo của Trung
Thần Thông Vương Trùng Dương, nếp sống của Tây Độc Âu Dương Phong là sự hưởng
thụ vật chất tầm thường, ô trọc. Căn cứ Bạch Đà Sơn chứa đầy gái đẹp, ngọc ngà,
châu báu, của ngon vật lạ... vốn là chiến lợi phẩm có từ cướp của, giết người,
bắt cóc...do hai chú cháu Âu Dương Phong và Âu Dương Công Tử thực hiện. Mô tả
này nhắc thời kỳ các nước Âu Châu ùa nhau đi chiếm thuộc địa, bắt buộc các dân
tộc khác làm nô lệ, thực thi chính sách đế quốc bóc lột tàn nhẫn, trở nên giầu
có và truỵ lạc
Sự mất trí, điên cuồng lúc về sau của Tây Độc biểu tượng
cho sự vong thân của người Tây Phương dẫn đến khủng hoảng xã hội, cách mạng, nội
chiến và đánh giết lẫn nhau gây ra đại chiến thế giới 1 và 2.
-
Nhân vật tiêu biểu cho Liên Sô: Bắc Cái.
Bắc Cái là ngoại hiệu của Hồng Thất Công.
Bắc Cái là bang chủ Cái Bang, là chúa ăn mày, tức là
trùm vô sản.
Liên Sô ở phía Bắc và Tây của Trung Quốc. Bắc nhiều
hơn Tây, vả lại Tây đã dùng cho trường hợp Tây Độc để ám chỉ Âu Châu.
Chữ Hồng, họ của Bắc Cái (Hồng Thất Công) theo Hán Văn
là rộng lớn mênh mông nhưng lại đồng âm với chữ Hồng là đỏ, mầu tiêu biểu cho đảng
Cộng Sản, tức Cái Bang. Thêm nữa, chữ Hồng gồm 2 phần, bên tả là bộ thuỷ, bên hữu
là chữ cộng, y như chữ Cộng trong từ ngữ Cộng Sản.
Kỹ thuật tranh đấu của Bắc Cái là Đả Cẩu Bổng Pháp -
dùng gậy để đánh chó của nhà giầu, đánh cả cường hào, ác bá, tham quan ô lại -
tiêu biểu cho chủ trương Giai Cấp Đấu Tranh, Hàng Long Thập Bát Chưởng tiêu biểu
Biện Chứng Pháp Duy Vật. Kiên Bích Trận của Cái Bang biểu tượng kỹ thuật tổ chức
và tranh đấu tập thể của Đảng Cộng Sản Quốc Tế do Liên Sô lãnh đạo.
Cái Bang của Hồng Thất Công có 2 phe ăn mày hiềm khích
và chống chọi nhau. Một phe áo lành và sạch nhưng ít người, ám chỉ Cộng Sản Đệ
Tứ với thủ lãnh Trotsky. Một phe áo rách và dơ nhưng đông người hơn, ám chỉ Cộng
Sản Đệ Tam do Stalin cầm đầu. Bắc Cái Hồng Thất Công có thể vừa tượng trưng cho
Liên Sô như là một quốc gia, vừa tượng trưng cho Lenin như là một nhân vật. Chỉ
khi Lenin lúc còn sống mới dung hợp được cả phe Stalin và phe Trotsky.
- Nhân Vật tiêu
biểu cho các nước thuộc thế giới đệ tam - tức là các nước đang mở mang như Thái
Lan: Nam Đế.
Nam Đế là ngoại hiệu của Đoàn Chính Minh, vua nước Đại
Lý, thuộc sắc dân Thái, sau thoái vị đi tu với pháp danh là Nhất Đăng, Nhất
Đăng Đại Sư. Người thế độ cho ông không phải là một cao tăng Trung Hoa mà là một
nhà sư Thiên Trúc, tức là Ấn Độ, theo Phật Giáo Tiểu Thừa khác với Phật Giáo Đại
Thừa thịnh hành ở Trung Hoa.
Hiện nay có cuộc mâu thuẫn giữa các nước đã phát triển
ở phương Bắc và các nước đang mở mang ở phương Nam, được gọi là tranh chấp Bắc
Nam. Nam Đế là biểu tượng của thế lực phương Nam.
-
Nhân vật biểu tượng cho Đức Quốc Xã và Phát Xít Ý : Anh em Cừu Thiên Nhạn và Cừu
Thiên Lý.
Được mời nhưng không tham dự cuộc Hoa Sơn Luận Võ,
Bang Chủ Thiết Chưởng Bang Cừu Thiên Nhạn được xem là có tài nghệ ngang với Võ
Lâm Ngũ Bá. Cừu Thiên Lý là anh song sinh của Cừu Thiên Nhạn, trông rất giống ,
có tánh mưu mẹo, gạt gẫm nhưng tài nghệ kém người em rất xa hàm ý Phát Xít Ý của
Mussolini ra đời trước, hay khoa trương,
nhưng không có thực lực như Đức Quốc Xã của Hitler.
Theo sự mô tả của Kim Dung, Thiết Chưởng Bang (Bang hội
Bàn Tay Sắt) lúc đầu là hội của những người yêu nước chống sự xâm lấn của nước
ngoài, về sau lầm lạc đi vào con đường cướp bóc, hung bạo, xem mạng người như cỏ
rác phù hợp với lịch sử chung của 2 chế độ độc tài hữu phái Quốc Xã và Phát
Xít.
Ngoại hiệu Thuỷ Thượng Phiêu phản ảnh công phu độc
đáo đi trên mặt nước của Cừu Thiên Nhạn
ám chỉ chủ nghĩa siêu nhân và siêu tộc của Đức Quốc Xã.
Tín hiệu bàn tay sắt của bang chủ Cừu Thiên Nhạn là gợi
ý đến từ bội tinh Thập Tự Sắt, huy chương quân công cao quý nhất của dân tộc Đức
cũng như huy hiệu chữ Vạn thời Hitler.
-
Nhân Vật biểu hiệu cho nước Mỹ: Dương Qua.
Dương Qua nhận Tây Độc làm nghĩa phụ và được truyền dậy
những công phu siêu đẳng hàm ý nước Mỹ có gốc gác Âu Châu, văn hoá Mỹ cùng tính
chất văn hoá Âu Châu, gọi chung là Tây Phương. Dương Qua còn được gọi là Tây Cuồng.
Dương Qua chính là Thần Điêu Đại Hiệp mà chim điêu
(eagle) là biểu hiệu của nước Mỹ. Quốc huy của nước Mỹ có hình chim điêu.
Trong lần Hoa Sơn Luận Võ cuối cùng, trong số 5 cao thủ
có mặt thì Dương Qua là người trẻ nhất được xem như kế vị Tây Độc nhưng không
ác hại như nghĩa phụ, lại học thêm được
tinh hoa võ thuật của các cao thủ khác, cũng như tự sáng chế nên có bản lãnh
cao hơn mọi người. Điều này phù hợp với sự kiện nước Mỹ là quốc gia Tây Phương,
trẻ trung, cường thịnh vượt hẳn các nước đế quốc Âu Châu già nua, tàn tạ như đế
quốc Bồ Đào Nha, đế quốc Tây Ban Nha, đế quốc Anh, đế quốc Pháp, đế quốc Hoà
Lan, đế quốc Bỉ... để trở nên đệ nhất siêu cường.
2.
Các nhân vật được dùng để mô tả một vài chính khách nổi tiếng trong lịch sử
Trung Hoa cận đại.
Trước
hết là trường hợp các lãnh tụ Trung Cộng.
Trong thời kỳ sáng tác ba bộ Võ Lâm Ngũ Bá, Anh Hùng Xạ
Điêu và Thần Điêu Đại Hiệp, Kim Dung còn thiên tả nhưng đến khi viết hai bộ Tiếu
Ngạo Giang Hồ và Lộc Đỉnh Ký, Kim Dung đã nhận chân được sự thật về Cộng Sản Quốc
Tế nói chung và Cộng Sản Trung Hoa nói riêng.
Trong bộ Tiếu Ngạo Giang Hồ đề tài chính là cuộc tranh
chấp đẫm máu giữa Triêu Dương Thần Giáo và các phe gọi chung là bạch đạo. Ông
Huy đã tìm thấy nhiều dữ kiện chứng tỏ rằng Triêu Dương Thần Giáo trong Tiếu Ngạo
Giang Hồ được dùng để ám chỉ đảng Cộng Sản Trung Hoa và hai vị giáo chủ Nhậm
Ngã Hành và Đông Phương Bất Bại biểu tượng hai nhà lãnh đạo quan trọng của
Trung Cộng là Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ. Ông Huy lý luận như sau:
Triêu Dương là buổi sớm mai lúc mặt trời ở phía Đông
mà bản quốc thiều của Trung Cộng là bản Đông Phương Hồng.
Khẩu hiệu chính của Trung Cộng trong thời kỳ chiến
tranh lạnh là “gió đông thắng gió tây” cho nên Giáo chủ Triêu Dương Thần Giáo
có tên là Đông Phương Bất Bại là hiện thân của Lưu Thiếu Kỳ, người làm chủ tịch
nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (Trung Cộng) trong 9 năm và nắm thực quyền một
thời gian dài trước khi bị lật đổ, bị tra tấn và bị giết.
Giáo chủ Nhậm Ngã Hành biểu tượng cho Mao Trạch Đông,
Chủ Tịch đảng Cộng Sản Trung Hoa. Việc Đông Phương Bất Bại bí mật giam Nhậm Ngã
Hành trong lòng đất dưới đáy Tây Hồ ở Hàng Châu ám chỉ thời kỳ Lưu Thiếu Kỳ
liên kết với Đặng Tiểu Bình tập trung quyền lực Đảng trong tay, dồn Mao Trạch
Đông vào thế “ngồi chơi xơi nước”, “hữu danh vô thực” sau thất bại “bước tiến
nhẩy vọt” khiến Mao uất hận dùng “đại cách mạng văn hoá” long trời lở đất để quật
ngược lại. Cuộc xung đột giữa Nhậm Ngã Hành và Đông Phương Bất Bại cũng kỳ bí
và ghê gớm như cuộc xung đột giữa Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ.
Thần Long Giáo trong Lộc Đỉnh Ký cũng được dùng để ám
chỉ đảng Cộng Sản Tầu. Giáo Chủ Hồng An Thông là hình ảnh xấu xí của Mao Trạch
Đông, bà vợ ác nghiệt nhưng trẻ đẹp Tô Thuyên tức Hồng Phu Nhân biểu hiệu cho
Giang Thanh, bọn Ngũ Long Thiếu Niên tượng trưng cho Vệ Binh Đỏ. Những cảnh tượng
xấu xa, tàn bạo, tệ hại liên quan đến Thần Long Giáo mà Kim Dung mô tả rất gần
với thực trạng chính trị Hoa Lục thời Đại Cách Mạng Văn Hoá.
Kế
tiếp là trường hợp của các chính khách quốc gia Trung Hoa
trong mắt Kim Dung theo như sự suy đoán của ông Huy.
Cũng trong Tiếu Ngạo Giang Hồ, nếu Triêu Dương Thần
Giáo (bị gọi là Ma Giáo) tượng trưng cho phe Cộng Sản thì phái Bạch Đạo tương
trưng cho phe Quốc Gia. Phe Bạch Đạo chính thức theo lập trường bảo vệ đạo lý
và tình trạng đương hữu nhưng trong thực tế phân hoá trầm trọng. Có những người
đàng hoàng, tử tế nhưng không thiếu kẻ gian ác. Nhân vật tiêu biểu cho loại người
sau là Nhạc Bất Quần, chưởng môn của phái Hoa Sơn, sau lên làm “minh chủ” của 5
phái “hợp nhất” gọi là Ngũ Nhạc kiếm Phái gồm Hoa Sơn, Hành Sơn, Tung Sơn, Thái
Sơn và Hằng Sơn.
Nhân vật Nhạc Bất Quần được Kim Dung dùng để ám chỉ Tưởng
Giới Thạch, sau khi “quốc phụ” sáng lập là Tôn Dật Tiên chết, thì trở thành
lãnh tụ số 1 của Trung Hoa Dân Quốc và Trung Hoa Quốc Dân Đảng.
Kim Dung dùng lối chơi chữ ở đây. Không để ý thì không
thấy. Nhạc, theo chữ Hán, là hòn núi lớn gồm chữ “khâu” là gò và “sơn” là núi.
Cả 3 chữ “nhạc”, “khâu” và “sơn” đều chỉ những khối lớn do đá cấu tạo nên. Mà
đá tức là “thạch” - Tưởng Giới Thạch!
Dưới ngòi bút có phần cố ý ...“bôi bác” của Kim Dung,
Nhạc Bất Quần có bề ngoài khả kính của một lãnh tụ võ lâm mang ngoại hiệu Quân
Tử Kiếm nhưng thực chất là Nguỵ Quân Tử hay Quân Tử giả hiệu.
Tưởng Giới Thạch còn có tên là Tưởng Trung Chánh hàm ý
thành tín ngay thẳng, không những chính thức theo chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Dật
Tiên - Dân Tộc độc lập, Dân Quyền tự do, Dân Sinh hạnh phúc - mà còn luôn luôn
đề cao Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ nhưng, theo Kim Dung, thật sự là người theo chủ
nghĩa quyền uy, một nhà độc tài hữu phái đứng đầu một chính quyền ung thối vì
tham nhũng.
Giống như Nhạc Bất Quần lớn tiếng tố cáo, miệt thị Ma
Giáo, Tưởng Giới Thạch kết án Cộng Sản tà nguỵ, bất nhân nhưng bên trong Tưởng
hành động còn tà nguỵ, bất nhân hơn hay cũng chẳng kém. (Trong Tiếu Ngạo Giang
Hồ, Kim Dung còn nghiêng về Nhậm Ngã Hành tức Mao Trạch Đông, hàm ý Mao vẫn đỡ
tệ hại hơn Tưởng. Chỉ trong Lộc Đỉnh Ký, qua nhân vật Giáo chủ Hồng An Thông Kim Dung mới xem Mao, Tưởng
đều đáng ghét như nhau).
THÔNG
ĐIỆP CHÍNH TRỊ CỦA KIM DUNG.
Trở lại những ẩn số chính trị mà ông Huy tìm thấy, những
ẩn số quan trọng nhất có lẽ là những thông điệp mà Kim Dung đã kín đáo gửi đến
cho đồng bào Trung Hoa của ông. Những thông điệp này cũng có thể trở thành những
điều đáng suy ngẫm cho những người hoạt động chính trị hay tranh đấu chính trị
nói chung ở bất cứ nước nào - Trung Hoa, Việt Nam, Miến Điện, Mỹ, Nhật, Âu, Phi....Chẳng hạn như:
1. Chính nghĩa
dựa trên đạo lý thường chỉ là nhận thức chủ quan, dễ dàng đưa đến sự thiên vị.
Đoàn thể nào cũng xem đạo lý của mình là đúng, là chính còn đạo lý của đoàn thể
khác là sai, là tà. Đấy là chưa kể “nói một đằng, làm một nẻo”.
2. Trong mọi
đoàn thể đều có người tốt, người xấu chứ không phải người của chính phái nhất định
là tốt, người của tà phái nhất định là xấu. Ma Giáo có thể có người tử tế như
Hướng Vấn Thiên, Khúc Dương Trưởng Lão, danh môn chính phái như Thiếu Lâm, Võ Đang
có thể có đệ tử đồi bại như Trần Hữu Lượng, Tống Thanh Thư. Hệ quả này là người
ta phải có tinh thần cởi mở và khoan dung đối với nhau. Nên cởi mở và khoan
dung như Lệnh Hồ Xung trong Tiếu Ngạo Giang Hồ
3. Mô tả quá
trình các nhân vật đạt đến vị trí tối cao như lãnh tụ, như minh chủ nguyên tắc
của Đạo Đức Kinh được thực thi là “tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi” (biết đủ
thì không bị nhục, biết dừng lại đúng lúc thì không bị nguy) và nguyên tắc “bất
tranh” (không tranh dành cho bằng được). Tả Lãnh Thiền, Nhạc Bất Quần tàn phế,
tử vong, thân bại danh liệt vì quá tham lam, ham hố. Mưu thâm thì hoạ cũng thâm
4.. Trong đoạn cuối của Tiếu Ngạo Giang Hồ, giáo chủ
Triêu Dương Thần Giáo ngỏ lời gả con gái là Nhậm Doanh Doanh cho Lệnh Hồ Xung
và mời Lệnh Hồ Xung làm Phó Giáo Chủ. Mặc dù yêu Nhậm Doanh Doanh tha thiết, Lệnh
Hồ Xung khước từ và bỏ đi. Điều này có nghĩa:
Riêng tại các nước có sự phân tranh Quốc-Cộng như trường hợp Trung Hoa
(cũng như Cao Ly, Cuba, Việt Nam) sẽ không có, không thể có, hoà giải, hoà hợp
dân tộc thực sự...vì ý thức hệ quá nặng
......
Trong hơn nửa thế kỷ vừa qua cho đến tận ngày nay có đến
hằng trăm triệu độc giả ở Trung Hoa, Đài Loan, Đông Nam Á, Bắc Mỹ, Âu Châu
...say mê nghiền ngẫm truyện Võ Hiệp Kim Dung, có hàng trăm tác giả viết sách,
báo bình luận về tư tưởng, cuộc đời của Kim Dung, thậm chí xuất hiện cả trường
phái “Kim Dung Học”.
Tuy nhiên, không thấy ai nghiêm túc đặt vấn đề “đi tìm các ẩn số chánh trị” trong các
tác phẩm của Kim Dung. Hoặc giả có đặt vấn đề thì chỉ “giải quyết” bằng cách
đưa ra các khái niệm mơ hồ về chuyện Tả, Hữu, Quốc, Cộng... chứ không có ai tìm ra được các những “bí mật” ẩn
tàng một cách rõ ràng, mạch lạc và có hệ thống như ông Nguyễn Ngọc Huy.
Kim Dung đã “qua mặt” được tất cả mọi người nhưng
không “qua mặt” được một người - một người Việt Nam!
Phải chăng “dẫu cường nhược có lúc khác nhau, song hào
kiệt đời nào cũng có” ?
Cao Tuấn
(Tháng
12/2018)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét