Chưa
bao giờ như hôm nay, nước Việt Nam chúng ta cần một chiếc phao cứu nạn trên cạn
( phao vật chất và cả phao tinh thần) như lúc này, để cứu thoát cả một dân tộc
sắp chết đuối trên mặt đất, chết đuối trên cao nguyên, chết đuối trong chính
tâm hồn mình, xin đọc bài:
NGUYỄN
GIA THIỀU – HỒN THƠ ẤY CHIẾC PHAO TRÊN CẠN
Khi tiếp cận một số tác gia văn học lớn thời phong kiến như
Nguyễn Trãi, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương…hầu như giới nghiên cứu văn học “quy phạm” ở nước
ta đều dùng khái niệm “trung đại” (trung cổ) là phạm trù văn hóa khu biệt của
phương Tây để làm hệ quy chiếu đo đạc, thậm chí còn làm phương pháp luận tiếp cận
nữa.
Chính sự lầm lẫn “lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia” trong
phương pháp luận ấy đã dẫn đến những đánh giá khá sai lạc về 9 thế kỷ văn học
dân tộc thời phong kiến của ông cha ta. Chúng tôi xin vứt bỏ cái kính chiếu yêu
trung cổ – kinh viện lầm lạc kia để nhìn nhận các tác gia văn học thời phong kiến
của ta dưới một cái nhìn khác, không phụ thuộc vào những định kiến hay những
bùa chú, những công cụ tiếp cận gông cùm lỉnh kỉnh ngoại lai nào. Trước hết,
chúng tôi xin đề cập tới một đại tác gia: Nguyễn Gia Thiều.
Nguyễn Gia Thiều mượn tâm trạng cung nữ mà nói chí hướng
mình, mượn mình mà đối chất, ỉ ôi ta thán thời thế, mượn thời thế mà vẩn vơ
nghĩ ngợi kiếp người, mượn kiếp người mà đối thoại, ầu ơ cùng trời đất, mượn trời
đất mà rong ruổi nỗi hư không, mượn hư không mà an ủi, xẻ chia nỗi buồn cung nữ.
Chính vì vậy, mỗi câu thơ của bậc thiên tài không chỉ đa ngữ nghĩa, đa tầng đa
vỉa như vân gỗ trong cây chò chỉ nghìn năm, mà còn nghĩa ở ngoài nghĩa, chữ ở
ngoài chữ, tư tưởng ngoài tư tưởng, như khói sương ngoài lại khói sương. Vì vậy,
khi đọc Cung oán ngâm khúc, chúng ta không chỉ phải dùng thị giác, thính giác,
tri giác, cảm giác, trực giác mà còn phải huy động cả linh giác, huệ giác, vô
giác, thiên địa giác, tổng hợp lại trong mơ hồ THI GIÁC mới có cơ gặp được hồn
thơ bách tuế thiên tuế này. Ví dụ như khi đọc câu thơ huyền nhiệm này của Ôn
Như hầu: “Cái quay búng sẵn trên trời / Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm” mà chỉ
tựa vào “cái quay” luân hồi sắc không, bào ảnh Phật giáo, hoặc tiêu dao vô vi với
“người đi đêm” áo gấm Lão Trang kia cũng chưa thấu được bờ bến câu thơ. Chừng
như cái huyệt, cái rốn, cái thần của câu thơ mang mang rất đạo này lại nằm
trong một động từ “búng” rất bé, rất đời, rất ngẫu nhiên ; như thể trên biển cả
vô cùng của thế giới đèn cù hư ảnh, vang lên rất đanh, rất sắc một tiếng con
tôm nhân tình chợt búng tanh tách.
Và cái quay Phật giáo kia, cái “người đi đêm” kia, hóa ra chỉ
là trò búng con quay của đứa trẻ con – tạo hóa có tên là thi ca. Một cái búng
tay tí tẹo thi ca lại có thể mở khép được cái vô cùng, chạm vào cái lênh đênh,
như chạm vào cái Không của Phật và cái Vô của Lão, hóa giải nỗi siêu hình bằng
nghịch ngợm nhân sinh. Từng câu thơ của bậc thi hào là một khối thống nhất các
mâu thuẫn lớn trong quy luật đồng nhất, phản phục, thoắt có, thoắt không, lúc
thuỷ, lúc hỏa, vừa có nghĩa lại vừa phản nghĩa, như trong phân tử vật chất đã
mang sẵn hạt phản vật chất, trong sự sống nào cũng mang sẵn một mầm chết. Chính
vì vậy, dùng phương pháp luận cắt lát của phê bình văn học nặng về xã hội học,
phê bình lý trí hay phê bình trực giác, phê bình đạo đức học, ngôn ngữ học, phê
bình phân tâm học, phê bình cấu trúc… đối với Cung oán ngâm khúc e rằng chưa thể
tất.
Phê bình xã hội học từ bấy nay đã chỉ ra rằng Cung oán ngâm
khúc tố cáo chế độ phong kiến tàn bạo, vô nhân đạo, chà đạp tình yêu hạnh phúc
con người. Cái chế độ tự nhiên đi bắt nhốt hết con gái đẹp thiên hạ vào một
cung cấm như tù chung thân, cho một người sợ nắng sợ gió, hom hem, bệnh hoạn gọi
là vua độc quyền hưởng lạc, bảo không ác sao được? Đúng quá. Lại bảo tác phẩm
này đầy tính nhân đạo chủ nghĩa. Nhà thơ bênh vực, cảm thông, chia sẻ với nỗi
buồn đau, nỗi khát vọng hạnh phúc, nỗi tuyệt vọng về tương lai của hàng trăm
cung nữ, nhất định là thương người quá đi chứ. Đúng quá. Lại bảo nghệ thuật của
thi phẩm này cao siêu, tuyệt vời. Vì hơn hai trăm năm nay rồi, những áng thơ
còn rung động, xúc cảm hàng triệu con tim yêu hồn Việt ngữ ông cha. Lại đúng
quá. Mà đúng cả với Chinh phụ ngâm, Truyện Kiều và thơ Hồ Xuân Hương nữa. Phái
phê bình phân tâm học thì dùng ông Freud để lý giải tình cảm bị ức chế tình dục
của các cung nữ và ngay cả với Nguyễn Gia Thiều, người bị coi là quan hoạn, nên
mới tạo ra nỗi khổ, nỗi thèm khát, nỗi hay đầy cảm giác nhục tính của tác phẩm.
Nghe ra, cũng có vẻ có lý. Người khác cho rằng, Ôn Như Hầu là đệ tử của Phật, của
Lão, trình bày cuộc đời như các cung nữ bị ông vua tạo hóa nhốt chơi, khổ lắm,
nhục lắm, mất tự do lắm, nên khuyên ta phải tìm vào cửa Không, cửa Vô mà lánh
cho qua bể trần gian. Lại có vẻ đúng. Có người chứng minh Ôn Như hầu yếm thế,
chán đời. Có người lại bảo không, bên ngoài thì thở vắn than dài thế thôi,
nhưng bên trong còn ham hố lắm, còn yêu đời lắm, còn hy vọng, thèm khát ái ân lắm,
cầu mong ơn mưa móc cửu trùng lắm… Phê bình duy mỹ thì bảo: vứt hết những cái
đó đi, chỉ lấy cái mỹ lệ văn chương làm tiêu chuẩn thôi, tuyệt đẹp từng câu, từng
chữ. Rồi phê bình hình thức, phê bình ngôn ngữ học, phê bình trường ngôn ngữ… đều
lôi thiên tài Ôn Như hầu về phía mình như honda ôm giành khách. Trong Cung oán
ngâm khúc có tất cả những điều trên và còn nhiều điều hơn nữa, nhưng hình như rồi
chẳng có một điều nào cả.
Kìa hàng trăm cung nữ thở than, đau khổ , ám ảnh chuyện mây
mưa, hy vọng, tuyệt vọng, rồi níu lấy Phật, lấy Lão, níu cả ông Khổng, thậm chí
níu cả ông Táo, ông Tơ như người chết đuối bám cọc. Nghĩa là trong 356 câu thơ
song thất lục bát, ta thấy hiện lên cả một thế giới người khổ ải xin tan hòa
vào thế giới thần thánh như mực mong hòa trong nước để được sống đời chữ nghĩa.
Nhưng rồi quay đi, quay lại, thoắt biến đâu như đèn cù, chẳng còn ai. Cả người
đọc thơ bồi hồi, rơi lệ một lúc cũng biến đi. Chỉ còn một mình nhà thơ lặng lẽ
trong từng câu chữ, ép hồn vào trang giấy như con bướm khô mà gánh chịu bể khổ
kiếp người, gánh chịu cả cái không đâu vô cùng của triết học và tôn giáo. Khiếp
quá. Cô đơn quá. Sầu thảm quá. Khi các cung nữ khóc than khản giọng thì nhà thơ
lên tiếng, phủ nỗi buồn vạn cổ lên cỏ cây, lên muôn vật, thậm chí lên cả hậu thế
nữa: “Phong trần đến cả sơn khê / Tang thương đến cả hoa kia cỏ này”. Câu lục
bát hay đến rớm lệ hai thế kỷ thi ca. Chừng như nỗi “phong trần, tang thương”
của dân tộc suốt hơn hai trăm năm qua chưa đi hết câu thơ thần diệu này của Ôn
Như hầu? Tưởng như chỉ dùng hai câu thơ trên cũng có thể bình được hồn thơ Nguyễn
Du, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, bà Huyện Thanh Quan…thuở ấy. Câu lục bát kia
bảo nó là tâm hồn thời đại thì cũng là đệ nhất tâm hồn, bảo nó là tư tưởng thời
đại thì cũng là đệ nhất tư tưởng.
Có thể nói, Ôn Như hầu là nhà tư tưởng lớn nhất của thi ca
Việt Nam từ trước tới nay. Tất cả tư tưởng của thi hào đã được hồn vía hóa, Việt
hoá, thi ca hoá. Thân gỗ của cây triết học, thần học cứng ngắc, khô khan qua cảm
hứng thi ca Ôn Như hầu, đã trổ hoa tư tưởng. Thi ca đã biến triết học trong ông
thành mỹ học, biến bộ óc tràn đầy sách vở kinh điển, già giặn, siêu hình, siêu
việt của ông thành nỗi oe oe chào đời tơ non của trái tim con người. Ngay cả nỗi
thống khổ trần gian đi qua thi ca ông cũng thành đẹp thế, cảm động và ngây thơ
thế, thương thế: “Thảo nào khi mới chôn nhau / Đã mang tiếng khóc ban đầu mà
ra”. Câu thơ thuần Việt, không một từ Hán chen vào, dung dị như nhọ nồi rau má
mà sâu thăm thẳm những vực cùng đỉnh. Con người ra đời phải chăng vì sợ quá mà
cất tiếng khóc đầu tiên? Tiếng khóc ấy như một tiếng thét báo hiệu, báo nguy,
báo thức, báo yên và báo động.
Khi tư tưởng được phát giác bằng thi hứng, bằng trực cảm, bằng
hình ảnh, hình tượng ngôn từ, tư tưởng ấy sống động và bền vững mãi. Trẻ sơ
sinh kia sao giống hệt thi ca, vừa ra đời đã cất tiếng khóc? Tiếng khóc ấy phải
chăng chính là tiếng hát đẹp nhất của con người trên mặt đất? Ôi chao, loài người
sẽ thế nào đây, nếu mỗi chúng ta vừa ra khỏi bụng mẹ đã hí lên cười hềnh hệch đến
méo mó cả phận mình? Cung oán ngâm khúc quả tình đã trở thành một trong những
“tiếng khóc ban đầu” của tinh thần văn hóa Việt. Con người sơ sinh – thi ca đã
đi qua tiếng khóc thứ nhất dữ dội của mình một cách bi tráng dễ sợ như thế, phỏng
còn tiếng khóc nào, nỗi thống khổ nào trên đời dọa nạt được nó? Hơn hai trăm
năm nay rồi và nghìn vạn năm nữa, các thế hệ người Việt Nam đều lần lượt dìu
nhau đi qua câu thơ này của Nguyễn Gia Thiều, như dìu nhau leo cây cầu kiều bắc
qua bể khổ, để suốt những năm ở trọ trên mặt đất không còn lạ gì, ngại gì nước
mắt với đau thương, cái mà trong bụng mẹ, thai nhi đã nghiền ngẫm, đã nhấm nháp
qua chiếc cuống nhau trần thế. Con người bị vây bủa bởi “tiếng khóc ban đầu” và
“nấm cỏ khâu xanh rì”, có vẻ như sợ hãi quá, hư vô quá, nhưng mà hay quá, thấm
thía quá, đương nhiên quá: “Trăm năm còn có gì đâu / Chẳng qua một nắm cỏ khâu
xanh rì”. Hãi thật, phàm là người, xưa nay có ai vượt qua nấm đất cuối của mình
đâu? Bản thân cái chết cũng rất tự nhiên như cái sinh, chẳng có gì đáng sợ. Ôn
Như hầu gánh trên đôi vai thi ca: một bên là cái sinh: “tiếng khóc ban đầu”, một
bên là cái diệt: “nấm cỏ khâu xanh rì” mà đi tiêu dao qua tôn giáo và triết học,
đi qua cả nỗi yếm thế cùng nỗi yêu đời, đi vào tận sâu cái Không để xóa cái
Không, đi hết cái khiếp sợ để không còn khiếp sợ nữa. Vậy thì cái đau về nỗi
người bèo bọt nào có xá gì: “Nghĩ thân phù thế mà đau / Bọt trong bể khổ bèo đầu
bến mê”. Ơ hay, không đi qua hết mê lầm thì làm sao diệt được mê lầm, không đi
qua “sóng cồn” thì sao biết được mình là “con thuyền bào ảnh”: “Sóng cồn cửa bể
nhấp nhô / Chiếc thuyền bào ảnh lô xô gập ghềnh”. Hóa ra, ngay trong cái Không
này, thi ca đã tìm thấy cái Hữu từ trong cảm giác, từ cảm xúc thẩm mỹ của nỗi
“nhấp nhô”, “gập ghềnh” của cuộc đời bồng bềnh, nhún nhảy như sóng gió, như võng
đưa, như những câu lục bát sâu sắc mang tính tư tưởng cao nhất của thi ca Việt
Nam vừa trích dẫn.
Ôn Như Hầu dắt díu một đoàn cung nữ đang chết khát yêu đương
vượt qua sa mạc của cõi Mộng hướng vào nguồn suối cõi Thực, qua cõi Tâm lần tìm
cõi Vật, cũng là dắt díu chính bản thân mình vượt qua siêu hình, vượt qua biển
bờ tôn giáo hư không để oà ra gặp cái Ngã, rằng Tôi là có thật, Tôi là chính của
Tôi, không phải bào ảnh, ảo giác, không phải mê lầm : “Giấc Nam Kha khéo bất
tình / Bừng con mắt dậy thấy mình tay không”. Sau giấc hòe ma mị, bèo bọt , nhà
thơ trong lốt cung nữ đã kinh ngạc “thấy mình” dù “tay không”, không còn gì cả,
không còn hư mê, chỉ còn chính bản thân mình, trả cho vô biên cái hư ngã, chỉ
mang theo cái chân ngã mà thành thi ca. Nguyễn Gia Thiều rốt ráo chẳng hư vô chủ
nghĩa tí nào cả. Cứ tưởng ông tuyệt vọng chán đời, lánh đời, ai ngờ ông chỉ núp
vào Phật Lão chơi tí như trưa nắng núp nhờ bóng cây, đoạn an ủi các cung nữ một
chút rồi lại sà ngay vào kiếp người mà hy vọng, mà tình tứ, mà kén vợ gả chồng
cho từ hoa cỏ đến chim muông. Những câu thơ viết về khát vọng lứa đôi hài hòa
âm dương vũ trụ hay nhất từ xưa đến nay của thi ca Việt Nam trong Cung oán ngâm
khúc, khiến trời đất, cát bụi cũng muốn hoá vợ chồng: “Kìa điểu thú là loài vạn
vật / Dẫu vô tri cũng bắt đèo bòng / Có âm dương có vợ chồng / Dẫu từ thiên địa
cũng vòng phu thê”. Tiếng Việt của ca dao tục ngữ được Nguyễn Gia Thiều nâng
cao thành chú rể Việt Nam cưới cô dâu từ ngữ Hán, điển tích Hán, nhập quốc tịch
chữ Nôm mà hóa hồn Việt thuần thục đoan trang, bình dân đại chúng mà vẫn yêu kiều
thục nữ, vẫn mỹ lệ, tài hoa đến không ngờ.
Thành ra Ôn Như hầu chính là ông tơ hồng của văn học, lấy
thi ca mà trói buộc chữ duyên tình lên cả vần điệu, lên cả càn khôn. Vượt qua mọi
cấm đoán thời phong kiến, cấm đàn bà con gái không được bày tỏ ham muốn xác thịt
cả trong đời và trong văn học, Nguyễn Gia Thiều đã ném toàn bộ chăn gối của
tinh thần giải phóng phụ nữ vào chính mặt vua chúa, cũng là ném cảnh phòng the
vào vẻ đạo mạo giả dối của thời đại, giật tung tấm bình phong, tấm màn che
phong kiến xuống tưởng không còn manh giáp: “Chốn phòng không như giục mây
mưa”, “Khi ấp mận ôm đào gác nguyệt”, “Mây mưa mấy giọt chung tình”, “Lối đi về
ai chẳng chiều ong”… hoặc câu thơ mà phái phân tâm học cũng phải gọi bằng thầy,
thơ hay đến nỗi chim chuột cũng phải ngẩn ngơ, mê mẩn: “Bóng gương lấp loáng dưới
mành / Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa”. Đối với cái dục, càng diệt, càng ý
thức về diệt dục nó càng phát lộ. Thế thì làm sao hàng trăm cung nữ ngày đêm chết
khát chờ “ơn mưa móc cửu trùng” có thể hóa các ni cô mà tu thành chính quả
trong ngôi chùa “Cung oán” ? Thành ra, muốn dắt đoàn cung nữ của mình tới cõi Phật,
Nguyễn Gia Thiều phải đưa họ đi hết cõi dục, cõi mà họ đang chết khát, đang bị
đày đọa trong địa ngục dục vọng. Đấy là bi kịch đớn đau nhất, tang thương nhất
của kiếp người, kiếp làm vợ vua trong thế giới “Cung oán”. Để muôn đời, những
thân phận cung nữ kia sẽ nhờ buồn thương mà bất tử với thi ca Ôn Như hầu, đặng
khóc than về sự trớ trêu của kiếp vợ vua: “Dẫu nhan sắc mấy cũng thừa / Lấy chồng
vua lại thành chưa có chồng” (thơ Trần Mạnh Hảo).
Thương thay những kiếp hồng nhan bạc phận, dẫu hóa cát bụi vẫn
còn thèm khát hạnh phúc chính ra họ đã được hưởng nơi quê mùa, dân dã, điều
không thể có trong cung vàng điện ngọc: “Thà rằng cục kịch nhà quê / Dẫu lòng
nĩu nịu nguyệt kia hoa này”. Chao, thi pháp Ôn Như hầu đâu chỉ rực rỡ những lầu
son gác tía. Hồn ông, thơ ông, qua khát khao niềm chăn gốì quê mùa của người
cung nữ, đã chớm ánh lên sắc vàng rơm rạ bình dân trong tinh thần “cục kịch nhà
quê” rất “oé oẹ”, rất nôm na mà vẫn cứ sang trọng, quý phái kiểu “má đào chon
chót” (“Giải kết đều oé oẹ làm chi”…/ “Song đã cậy má đào chon chót” ). Có phải
Nguyễn Gia Thiều muốn qua lời cung nữ mà ngụ ý, mà bóng gió nói về cuộc trở dạ,
cuộc lột xác, thoát thai của văn học Việt Nam từ Hán sang Nôm từng quằn quại mấy
thế kỷ từ thời Hàn Thuyên? Ấy là khi dòng thi ca dân tộc bắt đầu tìm cách chia
tay với thi pháp “bắt voi bỏ rọ” Hán, tâm thức mực thước Hán cung đình, để bước
ra bầu trời tự do, bước sang thi pháp lục bát phóng khoáng, uốn lượn bay bổng
Việt, tâm thức nâu sồng Việt bình dân đại chúng, chuyển từ phong cách “phong
lưu” qua phong cách “thanh đạm”: “Miếng cao lương phong lưu nhưng lợm / Mùi hoắc
lê thanh đạm mà ngon”? Hàng trăm cung nữ chết sầu chết héo, chôn má đào trong nấm
mồ chung “vách quế, tiêu phòng” chỉ vì “miếng cao lương phong lưu” giả hiệu ấy!
Đến khi biết nuốt vào “lợm” quá, tanh tưởi quá nhưng không nôn ra được nữa rồi,
đành ngồi mơ “mùi hoắc lê” dân dã hoa hèn cỏ nội như mơ cảnh Niết Bàn. Mãi mãi,
những cung phi ấy không còn được hưởng hạnh phúc “mùi hoắc lê” nôm na tuyệt vời,
để chúng ta, hậu thế được hưởng trọn vẹn 356 câu thơ nôm thuần Việt, hồn Việt
“thanh đạm mà ngon” của Ôn Như hầu tiên sinh tặng lại.
Giấu nỗi buồn đau của hàng trăm cung nữ bạc phước, bất hạnh
trong gan ruột mình, rồi cất lên tiếng ta thán của nghìn năm cung cấm, tâm hồn
Nguyễn Gia Thiều quả là nhức nhói, quặn thắt đến cả trời đất, đành nhờ thi ca
chuyển tải xót thương tới muôn vàn mai hậu. Thương thay một thời đại cung nữ, một
thời đại song thất lục bát, một thời đại của thi pháp vàng son đã biết cách
nghiêng xuống tìm tình duyên nơi “Lau nhau ríu rít cò con” nôm na dân tộc, mà vẫn
phải mếu máo cười khóc khi hát khúc ngâm “Cung oán”: “Cười nên tiếng khóc hát
nên giọng sầu”. Đau quá, không chỉ kêu lên một tiếng cô đơn như tiếng kêu “hàn
thái hư” Không Lộ thiền sư xưa, mà là một tiếng kêu căm uất dài tới hai trăm
năm có lẻ: “Chống tay ngồi ngẫm sự đời / Muốn kêu một tiếng cho dài kẻo căm”.
Ôn Như hầu dồn cả nỗi oán hận chế độ phong kiến tàn ác, chà đạp tình yêu hạnh
phúc con người của không chỉ nghìn muôn cung nữ vào trọn tâm can mình. Ông muốn
đập tan thời đại vô luân đó, muốn đập tan cả nền móng những khổ đau, muốn đập
tan ngay cả thân xác nặng nề đang chịu thay cái đau quằn quại của bao cuộc đời,
để tinh thần được tự do bay lượn trong vô cùng thế giới: “Dang tay muốn dứt tơ
hồng / Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra”. Có thể cùng với bao cung nữ, thân
xác Nguyễn Gia Thiều đã nằm lại trong “tiêu phòng” của chế độ phong kiến, nhưng
tinh thần ông, kiệt tác của ông là Cung oán ngâm khúc, thực sự đã đạp đổ tung
thời đại đau thương ấy mà bay về phía chúng ta, về phía con người. Ở đó, linh hồn
nhà thơ đã thực hiện được giấc mơ của hơn hai trăm năm trước, cùng tiêu dao
trong thế giới Lão Trang mà con bướm hoài nghi không còn ngơ ngác giữa mộng và
thực nữa :“Thoát trần một gót thiên nhiên / Cái thân ngoại vật là tiên trong đời”.
Chừng như tất cả chúng ta, thông qua tâm sự nghìn thu cung nữ – Nguyễn Gia Thiều,
đều chỉ là những cung nam, cung nữ của vì vua tạo hóa?
Được kiệt tác Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm
gợi hứng, Nguyễn Gia Thiều, một đại quý tộc, một đại trí thức, một tâm hồn thơ
xuất chúng đã mượn nỗi đau cung nữ mà hát lên tiếng thơ nôm tuyệt diệu, vừa cao
siêu đỉnh trời tư tưởng, vừa diễm lệ tận cùng tình cảm cỏ hoa, vừa quý phái hàn
lâm, vừa nâu sồng dân dã. Cung oán ngâm khúc quả tình có thể xếp ngang hàng với
hai kiệt tác Chinh phụ ngâm và Truyện Kiều, như tam vị nhất thể, như ba đỉnh
núi thi ca trong một quần thể tinh thần văn hóa Việt cuối thế kỷ thứ XVIII, đầu
thế kỷ thứ XIX còn sừng sững giữa trời, cùng vòi vọi với đỉnh thi ca đơn độc Ức
Trai trên dưới bốn trăm năm trước. Rất tiếc, trong chương trình văn học từ bậc
phổ thông đến bậc đại học, kiệt tác Cung oán ngâm khúc chừng như chưa được đánh
giá đúng mức, nếu không nói rằng tác phẩm này bị xuyên tạc bôi đen bởi quan điểm
phê bình xã hội dung tục bị chính trị hóa ?
Tất cả chúng ta, như lớp lớp người xưa, kể cả những tay bơi
cự phách nhất như “rái tướng” Yết Kiêu và Dã Tượng đời Trần, đều sẽ lần lượt, kẻ
trước người sau bị sự “đành hanh” của tạo hóa chòng ghẹo, đến độ phải chết đuối
trên mặt đất, như câu thơ hay đến kỳ lạ của Nguyễn Gia Thiều: “Trẻ tạo hóa đành
hanh quá ngán / Chết đuối người trên cạn mà chơi”. Nhưng may mắn thay, trò con
tạo đùa chơi không thể đánh chìm được hồn thơ Cung oán ngâm khúc, dù là sự đánh
chìm “trên cạn”. Thi phẩm này cứ trôi lênh đênh như một cái phao tâm linh cứu nạn
trên mặt đất, sẵn sàng cho những chơi vơi níu bám, ít ra là đối với những tâm hồn
đã được mỹ cảm thi ca cứu rỗi.
Trần Mạnh Hảo
© eVăn 2004
Sài
Gòn mùa khô se lạnh 1988, viết trong đêm mê sảng thực hư đắp mây trời “Cung
oán…” thanh khiết vân vi …
1 nhận xét:
Cám ơn chủ nhân trang blog và tác giả Trần Mạnh Hảo đã cho đọc một bài viết rất lý thú!
Hạ Thái
Đăng nhận xét