Một
chuyện tình thời chinh chiến, cộng với nghịch cảnh chính là Tôn giáo. Xin mời
các con chiên, các phật tử ngoan đạo hãy nằm vắt chân lên trán suy nghĩ về đường
lối cư xử trong những trường hợp lương tâm nan giải này
CHỊ
MÈ
Nguyễn đại Thuật
Đầu năm tôi vào học lớp nhất trường tiểu học, gia-đình tôi
có thêm một người giúp việc. Lúc bấy giờ gia đình tôi đã có một chị giúp việc lớn
tuổi chuyên lo về công việc đi chợ, nấu ăn, giặt giũ quần áo, lo giữ nhà cửa sạch-sẽ.
Cha mẹ tôi có tất cả năm người con, và trong tương lai gần mẹ
tôi sẽ có thêm một đứa con nữa. Có lẽ vì vậy mẹ tôi đã thuê thêm chị Mè. Cha mẹ
tôi có một cơ-sở làm ăn tương đối lớn, bận rộn công chuyện suốt ngày, mấy anh
chị em chúng tôi thiếu người săn sóc, nên chị Mè được giao cho công việc nầy.
Chị Mè còn trẻ lắm, chị khá đẹp, tóc ngắn ngang vai, kiểu
tóc mà thời bấy giờ người ta gọi là tóc thề. Chị gốc người làng Trà-Kiệu, thuộc
tỉnh Quảng-nam, cả làng theo đạo Thiên-chúa, nơi người ta nói đã có lần Đức Mẹ
hiện ra.
Chị Mè không biết chữ, nhưng chị thuộc kinh Chúa, đêm nào chị
cũng đọc kinh trước khi ngủ. Cha mẹ tôi gốc đạo Phật, nhưng tôi chưa có dịp đi
chùa lần nào, cũng chưa biết ông Phật là ai, nhưng qua chị Mè, tuổi thơ tôi thấm
nhuần rất nhiều về đạo lý của Thiên-chúa do chị kể. Chị đã dạy cho tôi thuộc
kinh Kính Mừng, Kinh Lạy cha và tôi đã được nghe chuyện rước mình Thánh chúa, nếu
ai nhận mình Thánh chúa không để tụ tan trong miệng, nuốt liền vô bụng thì mình
Thánh chúa sẽ biến thành lửa đố cháy ruột để trừng phạt. Chị khuyên tôi làm điều
tốt, không nên làm điều ác, làm điều tốt sẽ được lên Thiên-đàng gặp Đức-chúa Trời,
làm điều ác sẽ bị đọa vào Hỏa-ngục, bị quỷ ăn thịt, bị đốt thành lửa.
Mỗi sáng Chúa-nhật, chị được cha mẹ tôi cho phép đi dự thánh
lễ ở nhà thờ Con gà. Khi trở về nhà, chị thường kể lại cho tôi nghe những gì chị
được nghe cha xứ đã giảng. Có một buổi sáng Chúa nhật chị chuẩn bị đi lễ nhà thờ,
lúc bước xuống cầu thang thì guốc chị bị đứt quai, chị không có guốc khác thay
thế, chị không đi dự lễ nhà thờ được, chị ngồi khóc bên chân cầu thang. Tôi phải
xin phép mẹ tôi cho chị mượn guốc thay thế. Chị mừng quá, ôm tôi hôn rất nhiều
lần vào má và không quên lắp bắp lời cám ơn. Có lẽ nhìn cảnh chị mừng rỡ khi có
guốc tạm thay thế vào buổi sáng hôm đó nên vào lúc chị từ nhà thờ về nhà, cha
tôi bảo mẹ tôi cho tiền chị mua đôi guốc mới. Tôi nghe cha tôi nói với mẹ:
- Mình cho con Mè tiền mua đôi guốc mới, guốc nó mòn và đứt
quai không đi được".
Tôi nghe tiếng mẹ tôi:"
- Cứ sáu tháng tôi trả tiền công cho nó một lần, tôi mới trả
cho nó chưa tới năm ngày, nói nó lấy tiền đó mua".
Cha tôi cười, nói:
- Bà nầy hay thật, tiền đó nó nhờ tôi gởi hết về cho cha mẹ
nó rồi, bà biết mà.
Tôi không nghe mẹ tôi nói gì thêm. Chiều hôm đó, mẹ tôi dẫn
chị ra chợ mua guốc. Đôi guốc sơn màu đen rất đẹp. Khi chị đem đôi guốc bằng gỗ
vông của chị vứt đi, tôi nhìn thấy đôi guốc của chị mòn đến nổi không có đủ bề
dày để giữ chiếc đinh khi đóng quai.
Chị Mè không biết chữ, thời đó chính quyền của ông
Ngô-đình-Diệm khuyến khích dân chúng đi học trong kế khoạch xóa nạn mù chữ, vì
vậy có những lớp học Bình-dân giáo-dục mở ban đêm cho dân chúng không biết chữ,bận
công việc ban ngày,đêm có thời giờ đi học. Cha mẹ tôi cho chị đi học lớp
Bình-dân giáo-dục trong đình của khu phố. Lúc đầu chị không chịu đi, tôi hỏi,
chị nói: “chị lớn cái đầu rồi mà còn đi học,
mắc cỡ chết đi được”.
Rồi trước tết năm đó mấy ngày, cha mẹ tôi cho chị về quê
thăm gia-đình và phải trở ra làm việc những ngày tết. Sau tết, chị xin được đi
học lại lớp bình dân giáo dục. Cha mẹ tôi cũng không hỏi lý do tại sao trước
đây chị từ chối nay lại đòi đi. Nhưng sau tối đầu tiên đi học trở về nhà, tôi cắc
cớ hỏi chị: “Hôm nay chị Mè vào lớp có mắc
cỡ không”
Chị đập khẽ vào đầu tôi nói: “Có mà ít ít thôi, không bằng hôm trước Tết chị về quê, khi vào làng, bị
mấy thanh thiếu niên giăng giây chận đường xem giấy tờ, bắt đọc chữ trước khi
cho vào làng. Chị đâu có đọc được, mấy đứa đó đưa chị vào trụ sở hội-đồng xã, họ
bắt chị làm ký giấy cam kết phải đi học cho biết đọc biết viết. Nếu kỳ sau chị
về làng mà bị kiểm soát, không đọc được chữ thì họ không cho vào làng. Hôm đó
chị mắc cỡ muốn chun đầu xuống đất luôn. Gặp toàn mấy thanh niên thiếu nữ và
người quen trong làng khuyên chị nên theo lớp Bình-dân học vụ. Kỳ sau về làng,
bị kiểm soát, không đọc chữ được chắc là họ không cho vô làng quá, xấu hổ lắm”.
Bên cạnh nhà tôi có một hẽm nhỏ, đầu hẻm có một tiệm hớt
tóc. Người hớt tóc thuê mái hiên của một căn nhà để mở tiệm. Mấy anh em trai
tôi là thân chủ của anh chủ tiệm hớt tóc nầy. Mỗi một tháng rưỡi, anh em tôi được
chị Mè dẫn ra đây giao cho anh chủ tiệm, rồi trở lại trả tiền để đón về. Chủ tiệm
là anh Cường, người ta gọi anh Cường chay, bởi vì anh ăn chay, không ăn thịt
cá. Theo lời của một bà bán rong bún ốc kể cho mẹ tôi nghe nhân một buổi sáng cả
nhà tôi ăn bún của bà. Anh Cường chay ngoài việc hớt tóc anh còn biết nghề xem
chỉ tay, được nhiều người tin cậy, trong đó có bà. Anh xem chỉ tay chứ không nhận
tiền của một ai. Anh là người cùng làng với bà ở An-cựu thành phố Huế.
Anh Cường chay có một người cậu đi tu ở chùa Từ Hiếu. Anh học
hết năm đệ lục trường Quốc-học thì bỏ học vì nhà quá nghèo. Anh là con trai một
nên không bị đi lính. Anh học nghề hớt tóc của người cậu và được người dì em của
mẹ đem vào Đà nẵng hành nghề, vì ở An-cựu có nhiều người làm nghề hớt tóc nên
khó kiếm sống. Do tiết lộ của bà bán bún, thỉnh thoảng mẹ tôi mời anh Cường qua
nhà nhờ xem chỉ tay. Mẹ tôi thường khen anh Cường chay với cha tôi:
- Thằng Cường chay xem chỉ tay hay thật, nó nói tôi trúng
như gần hết.
Tôi không nghe mẹ tôi nói anh Cường chay đã nói đúng những
gì, nhưng mỗi lần nghe mẹ tôi nói như vậy cha tôi “hừ” lên một tiếng:
- Bà toàn tin những điều nhảm nhí.
Mẹ tôi còn nhanh nhẩu mời mấy bà bạn đến nhà để nhờ anh Cường
chay xem chỉ tay nữa. Những lúc như vậy, cha tôi không vui, mặt ông nhăn nhó, bỏ
đi khỏi cửa hàng đang buôn bán. Tuy nhiên, những lúc cha tôi đi Sài-gòn mua
hàng trở về đều có quà cho anh Cường chay, có lẽ để trả ơn những lúc anh đã xem
chỉ tay cho mẹ tôi.
Khi tôi bắt đầu vào năm học lớp đệ thất, chị Mè cũng đã biết
đọc. Không biết ai cho chị quyển Thánh kinh, chị nâng niu, giữ gìn rất kỹ. Chị
để quyển Thánh kinh trên đầu tủ, buổi tối, trước khi đi ngủ, chị rửa tay rồi mới
lấy xuống đọc. Có lúc tò mò muốn biết trong Thánh kinh viết những gì, tôi hỏi
mượn để xem, chị đồng ý cho mượn nhưng bất tôi phải rửa tay và nhiều lần nhắc
tôi không được để sách trên ghế ngồi, như vậy sẽ bị Chúa phạt.
Rồi có một thời gian, tự nhiên tôi nghe mẹ tôi hay la rầy chị
Mè; mỗi lần bị la như vậy tôi thấy chị Mè đúng trong góc nhà bếp khóc, hai mắt
đỏ hoe.
Mẹ tôi la chị:
- Sao lúc nầy mi cứ dở dở ương ương, y như người trên mặt
trăng, làm trước quên sau, làm gì hư nấy, lúc nào cũng thẩn thờ như bị ai hớp hồn.
Chỉ việc pha sữa tới giờ cho em bú mà cũng quên để cho thằng nhỏ khóc ầm cả
lên.
Tôi chưa bao giờ nghe chị trả lời mẹ tôi khi bị la mắng như
vậy. Chỉ im lặng và khóc. Khác với những kỳ đi hớt tóc trước, kỳ nầy chị Mè tự
nhiên nhắc tôi đi hớt tóc từ ba ngày trước. Đến hôm chị dẫn tôi vừa ra đến cửa
thì cha tôi bảo: “Nó lớn rồi tự đi hớt
tóc một mình, khỏi cần đưa đi.”
Chị Mè quay lui vào nhà, mặt chị xịu xuống và buồn. Khi tôi
bước vào tiệm hớt tóc, anh Cường chay thay vì chào tôi như trước đây, anh bước
ra khỏi tiệm nhìn trước nhìn sau con hẽm rồi đi trở vào hỏi tôi:
- Sao nay chị Mè không đưa em đi?
Tôi trả lời: “Cha em
nói em lớn rồi không cần chị Mè đưa đi”. Tôi nghe anh Cường thở dài. Suốt
buổi hớt tóc hôm đó, anh Cường không nói thêm với tôi một lời nào... Khi từ tiệm
hớt tóc về nhà, chị Mè gội đầu cho tôi, chị hỏi:
- Anh Cường có hỏi gì chị không? Tôi lắc đầu. Chị lại hỏi lần
nữa:
- Bộ anh ấy không hỏi gì chị sao?.
Tôi lại lắc đầu. Tôi lại nghe chị thở dài và chờ mãi không
thấy chị dội nước lên đầu khiến tôi phải nhắc chị. Mãi đến tối hôm đó tự nhiên
tôi nhớ lại lời anh Cường có hỏi tôi vừa lúc tôi đến hớt tóc. Tôi xuống bếp tìm
chị. Chị đang đọc quyển kinh thánh.
Tôi nói với chị:
- Bữa ni anh Cường có hỏi, sao chị Mè không dẫn em đến hớt
tóc, em trả lời cha em nói em lớn rồi đi một mình được, không cần chị Mè đưa đi
. Tôi thấy mặt chị rạng rỡ lên, chị nâng quyển Thánh-kinh lên hôn. Lúc tôi ra
khỏi bếp, tôi nghe chị nói vọng theo:
- Lần sau đừng quên như vậy nghe em, tội chị lắm!.
Mấy hôm sau, ngày Chúa-nhật, sau khi chơi đá banh trở về,
lúc đi ngang nhà thờ Con Gà, chen lẫn giữa những người dự Thánh lễ ra về, trên
đường đi, tôi nhìn thấy anh Cưỡng chở chị Mè sau xe đạp. Buổi trưa khi chị Mè gọi
cửa để vô nhà, tôi mở cửa.Chi vừa vào trong cửa, tôi cười và nói lớn:
- Lủc nảy em thấy anh Cường chở chị sau xe đạp ! Chị nhào tới
đưa tay bịt miệng tôi, nhưng cha mẹ tôi đã nghe và đã thấy. Mặt chi đỏ gay, cúi
đầu đi một mạch vào trong. Vừa lúc đó mẹ tôi nói với cha tôi:
- Hèn chi mấy tháng ni nó cứ thẩn thờ, quên trước, quên sau,
nó thương thằng Cường chay rồi... mới có bấy nhiêu tuổi!
Cha tôi cắt ngang lời mẹ tôi, nói diễu:
- Hay ghê! chớ bà yêu tôi lúc bao nhiêu tuổi ? Con Mè năm ni
nó mười bảy tuổi rồi, lúc đó bà còn nhỏ thua nó một tuổi…bộ quên rồi sao ?
Tôi chỉ nghe mẹ tôi "hừ” một tiếng rồi bỏ lên lầu.
Chuyện anh Cường chay và chị Mè thương nhau những ai ở trong
hẽm gần tiệm hớt tóc của anh Cường cũng biết. Bà chủ nhà cho anh Cường thuê mái
hiên trước nhà để làm tiệm hớt tóc đã có lần kể cho mẹ tôi nghe lúc đó có tôi
bên cạnh. Mấy ngày trước đó, ông thầy tu, cậu anh Cường ngoài Huế vào thăm anh
Cường, có đến tiệm hớt tóc chơi, bà nghe người cậu nói chuyện với anh Cường: “Cậu và có thể cả mẹ cháu cũng không chấp nhận
cuộc hôn nhân nầy. Cháu, con nhà thờ Phật bao nhiêu đời nay rồi mà cưới con Mè
gốc đạo Thiên chúa đến khi cháu chết thì ai cúng cơm cho, bộ cháu muốn làm ma
đói?”
Anh Cường phân trần:
- Đâu có sao, lấy chồng thì phải theo đạo chồng, cùng quả
thì đạo ai nấy giữ, cậu nói giúp cháu để bà chấp thuận hai cháu cưới nhau.
Người cậu lắc đầu lia lịa:
- Cậu biết là không được đâu, nhưng cậu sẽ cố nói giúp cho
cháu, được hay không thì cậu chưa biết. Rồi ông gằn giọng:
- Hết người thương sao lại thương con nhà theo đạo Chúa!
Ông hỏi anh Cường tuổi của chị Mè, bấm đốt ngón tay, miệng lẩm
nhẩm: “Tuổi hai đứa không có gì xung khắc,
nhưng cái đạo của ông Chúa và ông Phật xung khắc...không biết tính sao đây ?”
Không bao lâu sau khi nghe lõm được chuyện anh Cường chay muốn
cưới chị Mè, chị xin phép cha mẹ tôi nghỉ vài hôm để về Trà-kiệu chờ ngày
gia-đình anh Cường từ Huế vào xin lẽ hỏi. Thời gian đó anh Cường cũng nghỉ hớt
tóc.
Ngày trở lại làm việc, chị Mè buồn thiu, chị không nói chuyện
với ai, ngay cả tôi chị cũng không nói một lời. Ngày Chúa-nhật chị cũng không
đi lễ nhà thờ. Càng ngày chị càng thẩn thờ hơn. Mẹ tôi cũng la rầy chị nhiều
hơn vì chị lơ là công việc hàng ngày, đến nổi cha tôi phải ngăn mẹ tôi nặng lời
với chị:
"Mình
hãy thông cảm cho con Mè, gia-đình nó không cho thằng Cường chay cưới nó vì thằng
Cường chay không chấp nhận bỏ Phật theo Chúa, nó mất tinh thần nên sao lãng
công việc nhà, lần hồi tinh thần nó sẽ ổn định, làm việc bình thường trở lại.”
Định kỳ hớt tóc của tôi tháng đó bị gián đoạn, anh Cường
chay đóng cửa tiệm không rõ lý do. Ngày anh mở cửa làm việc trở lại cũng là
ngày bà chủ nhà cho anh Cường chay thuê mái hiên làm tiệm hớt tóc qua nhà nói
chuyện với mẹ tôi và tối hôm đó mẹ tôi kể lại cho cha tôi trong bữa cơm:
“Thằng
Cường chay đã đổi ý, chịu bỏ Phật theo Chúa để được cưới con Mè. Mẹ thằng Cường
chay không chịu, đòi cắn lưỡi tự tử và bà ta đã làm thật. Gia-đình thằng Cường
chay phải chở bà vào nhà thương Huế cấp cứu, may mà cứu kịp.”
Rồi không hiểu sao, chị Mè vui vẻ trở lại, công việc nhà chị
làm không còn bị mẹ tôi quở trách nửa. Chị tiếp tục đi lễ nhà thờ mỗi Chúa nhật,
anh Cường chay chở chị đi lễ và đón chị trở về bằng chiếc xe đạp đầm mới mua.
Chị Mè đã tiết lộ cho tôi biết, buổi tối hết công việc, chị sẽ xin phép cha mẹ
tôi tập đi xe đạp, chị nhờ tôi: “Tối nào
chị tập đi xe đạp,em giúp chị đóng của và mở của cho chị được không ?”
Tôi đồng-ý, hỏi chị: “Xe
đạp đâu mà chị tập ?”
Chị trả lời không đắn đo: “Xe đạp anh Cường mới mua”.
Biết được chuyện chị Mè được anh Cường chay đưa đón đi lễ nhà
thờ mỗi sáng chúa nhật bằng xe đạp, mẹ tôi nói với cha tôi: “Từ đây ra nhà thờ Con gà chỉ có hai trăm
thước mà đưa với đón, bày đặt!”
Cha tôi lại cười: “Nguời
ta yêu nhau mà em !”
Tôi học chưa hết năm đệ lục, chị Mè xin nghỉ việc vì giao ước
làm việc ba năm chấm dứt. Cha mẹ tôi đồng ý.
Lúc bấy giờ mấy anh chị em tôi đã lớn, đứa em nhỏ nhất ba tuối
đã có chị hai tôi săn sóc những khi nghỉ học hay những lúc rảnh rổi. Cha mẹ tôi
cũng không còn cần chị Mè. Mùa hè năm đó tôi lang thang cũng lũ bạn nơi họ đạo
Tam-tòa, tình cờ tôi gặp chị Mè, chị cho tôi biết đang cùng chung với người bạn
mở một tiệm may quần áo tại đây. Chị đưa tôi và lũ bạn về tiệm may của chị và
pha nước chanh cho uống. Đang uống thì anh Cường chạy đạp xe đến, vứt xe bên vệ
đường đi nhanh vào tiệm may, mặt anh cau có, có vẻ bực bội.
Anh nắm tay chị Mè kéo vào sau nhà. Thấy không khí lúc đó
không vui, tôi và lũ bạn im lặng rời tiệm may.
Về gần đến nhà, ngang qua hẻm có tiệm hớt tóc của anh Cường
chay, nhìn thấy có vài người tụ tập trước tiệm hớt tóc, tò mò tôi dừng lại, tôi
biết anh Cường chay không có trong tiệm, anh đang ở tiệm may của chị Mè.
Một người đàn bà tóc đã bạc đang ngồi bệt dưới đất trong tiệm
hớt tóc, mặt mày bơ phờ, tóc tai rũ rượi, hai tay đập vào nền đất, miêng rên ư ử
: “Con ơi là con ! Mè ơi là Mè ! con ở
đâu mà mấy tháng ni không về với cha mẹ? Cường ơi là Cường ! mi giấu con gái
tau ở mô ? hãy đem nó trả lại cho tau...không thì tau đập đầu chết ở đây cho mi
hả dạ…”
Mấy người hiếu kỳ đứng xem nói với nhau:
“Cường
chay với con Mè thương nhau, xin cưới nhau nhưng hai bên cha mẹ không thuận vì
khác đạo nên hai đứa nó lén lút sống chung. Bữa ni mẹ con Mè từ quê ra tìm nó,
đến đây nằm vạ đòi con gái.”
Tôi rời đám đông, ra đến đầu hẻm thì vừa lúc anh Cường chay
đạp xe chở chị Mè chạy vào hẻm.
Tối hôm đó chị Mè đưa mẹ qua xin phép cha mẹ tôi cho ngủ nhờ
để sáng hôm sau trở lại quê. Anh Cường chay đứng ngoài cửa, tôi nghe anh thở
dài, còn chị Mè hai mắt đỏ hoe.
Mấy ngày liên tiếp sau đó tiệm hớt tóc của anh Cường chay
đóng cửa, bà chủ nhà lại qua nói chuyện với mẹ tôi:
“Hôm
con Mè đưa mẹ về quê, khi qua đò, con Mè nhảy sông tự tử, nhờ nước sông cạn nên
con Mè được vớt lên, chở vô bịnh xá quận Điện-bàn cứu chữa. Bác sĩ nói cái thai
trong bụng con Mè không bị ảnh hưởng gì. Thằng Cường chay không làm việc mấy bữa
ni, nó đi thăm con Mè ở bịnh xá.”
Bà lại thở ra: “Trai
gái thời nầy loạn rồi, chưa thành vợ thành chồng mà đã ăn nằm với nhau để có chửa!”
Từ đó, tôi không còn được gặp hay được nghe tin tức nào liên
hệ đến anh Cường chay và chị Mè.
***
Sau những năm tháng chiến tranh ác liệt Quốc Cộng, miền Nam
Việt-nam thua cuộc. Chiến tranh chấm dứt, nhưng lòng người lại ly-tán. Đất nước
như nồi canh chay bị vỡ, người dân xông xáo khắp nơi, tìm đường ra khỏi biên giới,
làm người Do-Thái lang-thang, tạo lập cuộc sống mới nơi xứ người. Trong dòng
người nầy có gia-đình tôi. Trong những năm tháng tạo lập đời sống mới, lần lượt
cha mẹ tôi qua đời, linh-vị được thờ tại một ngôi chùa nhỏ phía Nam thành phố
Paris nước Pháp. Chùa có tên Tây-Phương. Vị sư Trụ-trì chùa, Thượng-tọa Như-Hóa
mới đây đã viên-tịch, một thầy khác, Thuợng Toạ Giác-Miên, được mời từ Népal
qua thay thế nhưng tôi chưa có dịp diện-kiến.
Rằm tháng bảy âm-lịch trong năm 2000, tôi điện thoại đến
chùa xin ghi danh lễ cầu siêu cho cha mẹ nhân ngày xá tội vong nhân. Hôm đó,
tôi vừa đến chùa thì lễ cũng đã bắt đầu. Tiếng đọc kinh, tiếng chuông mõ hòa
quyện cùng khói nhang thơm làm tâm thần tôi thanh-thản, tôi cố lắng nghe âm
thanh tên, tuổi cùng pháp-danh của cha mẹ tôi sẽ được đọc lên trong buổi lễ… tôi
đang chờ...t ên của cha mẹ cùng Pháp-danh của một phật-tử nào đó được đọc lên,
kế tiếp...và kế tiếp...
Tôi giật mình, không tin vào tai tôi…Théresa Hứa-thị Mè,
sinh ngày 12 tháng ba năm 1943 tại làng Trà-kiệu tỉnh Quảng nam, tạ thế ngày 10
tháng 2 năm 1999 tại thành phố Marseilles nước Pháp... thầy chủ trì chánh lễ vừa
đọc đến đây thì tiếng chuông mõ bỗng ngừng lại, hàng Phật-tử dự lễ sát chánh điện
ngơ ngác, lao xao. Một tăng sinh còn trẻ nhưng vốn quen việc nghi lễ trong chùa
vội vàng thay thế Thầy đọc tiếp danh sách cầu siêu trong tiếng xì xào mất trật
tự...rồi có tiếng yêu cầu gọi xe cấp cứu.
Khi biết thầy Giác-Miên bị ngất xỉu, phản ứng theo thói quen
của một bác-sĩ, tôi bước nhanh đến bàn thờ Phật. Thượng-tọa Giác-Miên đang quỳ,
nhưng cả phần thân người bên trên gục xuống hàng chuông mõ phía trước. Tôi nâng
mặt thầy lên, quàng tay sau lưng thầy, đỡ nhẹ thầy nằm xuống mặt thảm trước
chánh-điện. Tôi thực hiện những tác động cấp cứu dành cho một người bị ngất xỉu.
Vài phút sau thầy bắt đầu tỉnh lại. Một vài Phật-tử giúp tôi dìu thầy về phòng
riêng. Tôi tiếp tục theo dõi huyết áp và nhịp tìm của Thầy. Tôi nghe hơi thở của
thầy bình thường trở lại, nhưng hai mắt của thầy vẫn nhắm như ngủ. Tôi căn dặn
vị thị-giả những điều cần thiết phải săn sóc khi thầy tỉnh hẳn. Vừa quay người
định ra khỏi phòng, tôi nghe tiếng thầy Giác-Miên thều thào: “Bác sĩ, bác sĩ có phải là chú Kính ở Đà Nẵng
không?”
Tôi quay người lại, thầy thều thào tiếp:
- Chú không nhớ thầy sao ? Nghe cái giọng đặc biệt Quảng-nam
Đà-nẵng của chú, thầy nhận ra ngay...Thầy là Cường chay, ngày xưa hớt tóc cho
chú đó .
Tôi cúi xuống nhìn kỹ mặt thầy: hai mắt đã mở, hai bên khóe
mắt có vài giọt nước chảy dọc theo hai bên sóng mũi. Tôi nhận ra được thầy
Giác-Miên là anh Cường chay. Tôi ngối xuống bên cạnh thầy, hai tay nắm hai tay
của thầy. Xúc động làm tôi ứa nước mắt... mới đó mà đă hơn hai mươi lăm năm.
Cái âm thanh Theresa Hứa thị-Mè vừa được đọc lên trong lễ cầu siêu lại hiện
trong đầu tôi..và tôi chợt hiểu, có thể đó là lý do thầy Giác-Miên ngất xỉu!
Những tháng năm sau đó tôi viếng chùa Tây-Phương thường
xuyên hơn, có lẽ vì anh Cường chay là Thuợng Toạ Giác-Miên trụ trì. Một hôm,tôi
gặp thầy xin nhận một lễ quy-y cho toàn gia-đình của tôi. Nhân lúc trong phòng
làm việc chỉ còn mình thầy, tôi đánh bạo hỏi:
- Chắc thầy còn nghĩ đến chị Mè phải không?
Thầy không trả lời, mặt trở nên suy-tư, xa vắng. Tôi hỏi tiếp:
- Hồi đó, sau khi chị Mè nhảy sông tự-tử, thầy có gặp được
chị ấy không?
Thầy bối rối và do dự khá lâu rồi mới bắt đầu nói chuyện của
thầy với giọng buồn rầu:
- Mô Phật! Mấy mươi năm nay thầy đã chôn quá khứ của thầy
trong lời kinh, tiếng chuông tiêng mõ mà hình như nghiệp vẫn chưa dứt được, còn
theo mãi cho đến ngày nay......
... Trước khi Mè nhảy sông tự vẫn, thầy và Mè đã chuẩn bị sẵn
sàng vào Lâm-đồng sinh-sống. Lúc bấy giờ Mè đã có thai. Chú biết, thầy và Mè
thương nhau. Sự ngăn cản của hai bên gia-đình không cho hai đứa cưới nhau càng
quyết liệt thì hai đứa càng bất chấp tai tiếng. Sau khi được cứu chữa bình-phục,
Mè trở về quê. Hai đứa đã quyết định ngày giờ gặp nhau để bỏ xứ ra đi. Ngày hẹn
đã đến, thầy chờ không gặp được Mè.
Ngày hôm đó đồng bào trong quê gồng gánh cùng gia-súc lũ lượt
từ trong xóm làng xa xôi tràn ra quốc lộ. Người ta kể cho nhau nghe trận chiến
đã xẩy ra đêm hôm trước ở làng Trà-kiệu. Giải-phóng quân Cộng-sản Việt-nam đã tấn
công làng, đốt phá cơ sở chính-quyền địa-phương bắt dẫn đi chỉ điểm những viên
chức chính quyền. Đạn pháo binh từ trong đồn địa phương quân cũng như từ quận bắn
vào làng. Gần sáng, máy bay từ Đà-nẵng bay vào yểm trợ. Bom đạn quân đội hai
bên làm làng Trà-kiệu tang-hoang... Không biết dân làng ai chết ai sống, mạnh
ai nấy chạy. Cái gì lấy được thì mang theo. Cả mấy ngày tiếp theo, thầy đi đến
các làng xã quanh làng Trà-kiệu, vào các bịnh-viện lớn, bịnh-xá nhỏ tìm Mè, Mè
vẫn biệt tăm. Nửa tháng sau thầy theo chân dân làng được cho phép trở về đến
trước nhà Mè, ngôi nhà đã bị cháy rụi. Mấy tháng chờ đợi sau đó, tin-tức về sự
sống của Mè vô vọng, thầy trở về Huế và thầy xin xuất gia với người cậu...
Sau tốt nghiệp Phật-học viện Nha-trang năm 1970 thầy được học
bổng đi học bên Ấn-độ… rồi ở tu luôn tại bên ấy. Các đây vài tháng thượng-tọa
Như-Hoá viên-tịch, thầy được chuyển về đây thay thế.
Tôi hỏi thầy:
- Danh sách lập để được cầu siêu hôm rồi không phải do thầy
lập sao?
“Không
!.Do một phật-tử chuyên trách từ thời còn thầy Như-Hóa.”
Tôi nói tiếp:
- Như vậy thì chị Mè không bị chết trong hôm làng Trà kiệu bị
giặc tấn công và người xin lễ cầu siêu xưng là con gái của chị Mè... nhưng
không rõ có phải là con chị Mè với thầy hay con sau nầy với người khác...
Thầy không trả lời câu hỏi của tôi, thầy chỉ gật đầu…rồi lắc
đầu... rồi thở dài.
Tôi hỏi tiếp:
- Thầy có muốn tìm sự thật về chị Mè những tháng năm sau này
nầy không?
Thầy trả lời dè dặt:
- Chú Kính giúp thầy việc nầy thì quý hoá lắm. Từ hôm đó đến
nay, thầy suy nghĩ hoài mà không biết làm gì và làm như thế nào.
Tôi vừa thương thầy vừa ái-ngại cho thầy, đoán biết trong thầy
con sóng tình cảm xa xưa trở về đang làm thầy giao-động.
Nhờ vào số điện-thoại lưu trong phiếu xin lễ cầu siêu, tôi
liên lạc với con gái chị Mè. Không khó khăn lắm khi tôi tự giới thiệu với con
gái chị Mè, ngày xưa, rằng thời chiến tranh chị Mè làm việc trong gia-đình tôi
ba năm, từ khi chị Mè thôi việc, tôi không có tin tức của chị... Vừa qua, nhân
dự lễ cầu-siêu tại chùa Tây phương, có nghe tên của chị Mè được đọc trong buổi
lễ, nên nay liên lạc để hỏi thăm. Đầu giây, cô gái tự nhận là con gái duy nhất
của chị Mè, đang cùng chồng và con cái sống ở một làng vùng ngoại ô Bắc Paris.
Qua trao đổi nhận biết nhau, con gái chị Mè mời tôi đến thăm nhà nhân dịp cuối
tuần.
Một tuần sau đó tôi đến thăm con gái chị Mè. Nhà nằm trong một
trang trại nuôi gà công-nghiệp. Con gái chị Mè tự giới thiệu tên là Michelle,
có chồng là người Pháp chủ trại gà và có ba con. Sau những bỡ ngỡ ban đầu hai
chúng tôi trở nên thân thiện rất nhanh. Tôi đã kể cho Michelle kỷ niệm giữa tôi
và chị Mè ngày xưa lúc chị giúp việc cho gia-đình tôi. Tôi cũng đã giới thiệu
cuộc sống hiện tại của tôi... và cả buổi sáng ngày cuối tuần hôm đó tôi đã được
nghe Michelle kể về mẹ của mình, chị Mè:
Michelle sống với mẹ vùng Chợ Đệm Thủ-Đức, mẹ có một quán
may nhỏ chuyên sửa quần áo lính cho các sinh-viên sĩ quan Trường bộ binh Thủ-Đức
nên cuộc sống của hai mẹ con rất ổn-định. Những năm tháng đó, Michelle không
bao giờ được mẹ kể cho biết gia-đình thân thuộc có ai và ở đâu.
Khi hỏi về cha của mình, chị được mẹ nói là thất lạc trong
chiến tranh không biết chết sống thế nào. Tên cha được ghi trong giấy khai-sinh
là Lê-chí-Cường, sinh-quán tại Huế. Năm 1975, khi miền Nam Việt-nam bị thay đổi
chính quyền, mẹ chị vẫn sống bằng nghề may. Michelle được nhận làm tiếp-viên
cho khách-sạn Caravelle nhờ thông thạo Pháp ngữ. Tại đây, Michelle quen biết với
một du-khách Pháp và một năm sau hai người cưới nhau. Chồng của Michelle là đảng-viên
đảng Xã-hội Pháp, làm xã trưởng của một xã nhỏ vùng ngoại ô thành-phố
Marseilles.
Michelle và mẹ cùng qua Pháp một ngày. Mẹ được nhận phụ giúp
việc săn sóc các nữ tu Thiên chúa giáo về hưu tại địa phương. Năm 1999, mẹ chị
bị phát hiện ra bịnh ung-thư lá lách ở giai đoạn cuối. Trong chống chọi với căn
bịnh ngặt nghèo, biết là mình không thoát khỏi sự chết, mẹ đã kể lại một phần
đoạn đời của mẹ....
Sau cái đêm làng Trà-Kiệu bị giặc tấn công chiếm đóng,
gia-đình mẹ tản-cư vào tạm trú nhà một người bà con tại thị-xã Tam-kỳ. Cuộc chiến
trở nên ác-liệt, gia-đình mẹ không trở về làng cũ. Cháu được mẹ sinh ra vài
tháng sau đó. Cuộc sống cơ cực, hai mẹ con bị gia-đình đối xử lạnh nhạt vì mẹ
sinh con trước có phép cưới. Quá đau khổ, quẩn-trí, một đêm mẹ định để cháu lại
cho bà ngoại, lén ra sông tìm cái chết. Trên đường đi khi ngang qua một căn nhà
trong một xóm nhỏ, mẹ nghe tiếng khóc, tiếng của một đứa trẻ: “Mẹ ơi! mẹ đâu rồi ?. Mę đi đâu rồi? Con sợ
quá..” Trong đêm khuya, tiếng khóc đòi mẹ của đứa trẻ như xé lòng mẹ, đánh
thức lương tâm và trách nhiệm của mẹ mà trong một phút giây nông nổi mẹ đã định
làm chuyện dại dột... Và mẹ đã quay trở về nhà.
Trong cùng cực của cuộc sống, một may mắn đến với mẹ... người
bạn cùng may chung với mẹ ở Đà-nẵng trước đây, vừa có chồng là lính phục vụ
trong quân-trường Sĩ-quan trừ bị Thủ-Đức, gặp lại mẹ, rủ mẹ cùng hợp tác may
chung tại quán may ở Chợ Nhỏ mà bạn mẹ theo chồng dọn về đây. Cuộc sống bắt đầu
ổn-định,mẹ đã nhiều lần về Đà-nẵng, về Huế tìm ba, nghe nói ba đã đi tu ở nơi
xa và ba đã như một cánh chim lạc trong bốn phương trời vô-định.
Michelle ngừng một chốc,thở ra, kể tiếp:
“Mẹ
cũng có kể cho cháu về mối tình ngang trái của mẹ.... mẹ không còn kỳ-vọng gặp
ba trước khi nhắm mắt mẹ đã căn dặn cháu phải làm theo lời mẹ, sau khi mẹ chết...
mẹ nói:
-
Khi mẹ chết rồi, cháu phải thờ mẹ trong một ngôi chùa nào đó... ngày xưa, vì vấn
đề tín-ngưỡng mà tình duyên của mẹ ngang trái. Ba của cháu đã xin từ bỏ đạo Phật
của mình theo đạo Thiên-chúa để được cưới mẹ, nhưng gia-đình của ba không thuận,
bà nội, tức mẹ của ba cháu đòi tự vẫn nếu ba cháu quyết định bỏ Phật. Nay vì tấm
lòng của ba, bỏ đạo của mình để được cưới mẹ, tuy chuyện không thành. Tôn giáo
thường dạy con người có linh-hồn sau khi chết sẽ về an nghỉ ở một nơi nào đó,
thì như vậy, Phật sẽ che chở linh hồn mẹ và mẹ sẽ gặp được ba cháu không còn bị
giới luật của tôn giáo ràng buộc, ngăn cấm. Cháu đã làm theo lời mẹ, đem di-ảnh
của mẹ thờ tại chùa Tây-Phương mấy năm nay, từ khi cha mẹ chồng cháu nghỉ hưu,
giao cơ-sở chăn nuôi cho chồng cháu quản lý vừa lúc chồng cháu hết nhiệm-kỳ xã
trưởng."
Tôi đã kể lại cho thầy Giác-Miên câu chuyện gặp gỡ Michelle
ngày hôm đó. Qua điện thoại giọng thầy đầy khích-động. Tôi cho thầy biết,
Michelle chưa biết thầy là thân sinh của cháu vì lý do tôi chưa xin sự chấp thuận
của thầy...thầy nói: “Phải cho Michelle
biết... làm thế nào đây để tạo sự thuận-tiện thầy cũng chưa biết.. .thôi chờ
vài hôm nữa mình bàn tính lại.”
Sự bàn tính tạo thuận tiện cho cha con thượng-tọa Giác Miên
và Michelle gặp nhau đang trong dự trù thì một buổi sáng tôi đang còn ngủ có tiếng
reo điện thoại đánh thức tôi dậy. Một người nào đó từ chùa Tây-Phương báo cho
biết tin thượng-tọa Giác-Miên đang công phu sáng đã bị đột quỵ, được xe cứu
thương chở vô bịnh viên cấp cứu. Thay vì vào nơi làm việc, tôi lái xe chạy thẳng
vào bịnh viện thăm thượng-tọa Giác Viên; nhân viên tại đây báo cho biết Thượng-tọa
đã ra đi, bác-sĩ không cứu kịp.
Sau lễ an-táng thượng-tọa Giác Miên, tôi đến thăm Michelle một
ngày cuối tuần. Tôi chuyển cho Michelle một bao thơ của thượng-toạ Giác Miên đã
viết sẵn. Bao thơ được tìm thấy trên bàn làm việc của thầy, nhờ tôi trao lại.
Michelle nhìn tôi vẻ bối rối khi nhận thơ. Tôi yên lặng ngồi nhìn Michelle e-dè
mở thư ra đọc. Tôi thoáng thấy có những tấm hình đen trắng kèm theo thư cùng bản
sao một thẻ căn cước... Mặt Michelle càng lúc càng trở nên căng thẩng đầy xúc động...
những giọt nước mắt chảy ra từ hai khóe mát, lan dài trên má. Tôi đứng dậy đến
gần cửa sổ nhìn ra ngoài, tránh nhìn các hình ảnh cảm động đang diễn ra trước mặt.
Một tiếng nấc, rồi những tiêng thổn thức tiếp nối.Tôi quay lại,
mặt của Michelle cúi xuống, hai tay ôm đầu, hai vai run-rẩy.
Chờ Michelle bớt xúc động, tôi đến ngồi bên cạnh, giúp nhặt
lên thư và hình ảnh bị rơi xuống đất. Trong một tấm hình, tôi nhìn thấy anh Cường
chay và chị Mè chụp chung bên bờ con sông Hàn ở Đà-nẵng, hai người âu yếm
choàng vai nhau... và bản sao thẻ căn-cước bằng tiếng Pháp có in hình anh Cường
chay ghi: Lê-chí-Cường sinh năm 1940 tại Huế... Việt-nam....
Michelle nhận thư và hình ảnh từ tay tôi, ôm tất cả vào ngực..lại
thổn thức: “Mẹ ơi ! Ba ơi !”.
Tôi từ giã ra về.
Michelle tiễn tôi ra cổng trang trại. Tôi nghe có tiếng gà
gáy trong một góc nào đó từ bên trong xa… Nắng buổi chiều vàng vọt trãi dài
trên các ngọn cây. Tôi thoáng nhìn thấy anh Cường chay đang chở chị Mè trên xe
đạp chạy từ nhà thờ Con Gà về xóm chùa Hải-Châu, nơi anh Cường chay có tiệm hớt
tóc.
Nguyễn-đại-Thuật
Paris, ngày 16/01/2019
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét