Tác
giả Màu tím hoa sim -
Tranh dán giấy của Phạm Hoan
Tranh dán giấy của Phạm Hoan
HAI
LẦN GẶP NHÀ THƠ HỮU LOAN Ở BÀ RỊA
Lê Thiên Minh Khoa
Tôi gặp nhà thơ Hữu
Loan chỉ 2 lần, nhưng lần nào cũng dài ngày.
Lần đầu, vào đầu
năm 1988, vào dịp tết Nguyên đán, gia đình tôi được đón tiếp nhà thơ Hữu Loan ở
Bà Rịa khi ông du hành phương Nam.
Đây là cuộc hành
phương Nam đầu tiên của ông sau ngày 30.4.1975. Sau nhiều năm bị quản thúc tại
địa phương, đến năm 1986, ông mới được ra Hà Nội thăm bạn bè và cuối năm 1987,
làm một chuyến du hành phương Nam. Trạm dừng chân đầu tiên là Huế, rồi Quảng
Ngãi, Nha Trang và cuối cùng là Biên Hòa và Bà Rịa. Đến địa phương nào, ông
cũng được giới văn nghệ sĩ đón tiếp nồng hậu. Riêng ở Bà Rịa, ông trú lại suốt tết năm đó, đầu năm 1988, ăn ngủ
với chúng tôi, cùng đi chơi hội vui
xuân, chụp hình, đàm đạo, dẫn các cháu bé đi dạo, dự các tiệc thơ với Hội thơ
Lan Đình, giao lưu với văn nghệ sĩ, trí thức Bà Rịa yêu thơ ông, ngồi làm mẫu
cho HS Phạm Hoan ký họa, nhậu “xoay tua” với bợm nhậu đất rượu Hòa Long… Ôi, biết
bao là kỷ niệm đẹp với ông, về ông!…
Lần thứ 2
là hè năm 1988, khi ông lại vào Nam tìm thăm người con cả đang làm thợ mộc ở xã Hắc
Dịch, một xã vùng sâu của huyện Châu
Thành (thị trấn Bà Rịa nơi tôi ở, bấy giờ là huyện lỵ của huyện Châu
Thành), tỉnh Đồng Nai (cũ) và trở thành
khách mời không chính thức của trại sáng tác do Hội VHNT Đồng Nai
tổ chức ở Long Hải, cách Bà Rịa 12km. Lúc nầy ông sống "ba
cùng" với chúng tôi và ông được văn nghệ sĩ trong đoàn đón tiếp nồng hậu
"trên mức tình cảm".
Lại nói, khi ở
Bà Rịa với anh em chúng tôi, nhà thơ Hữu Loan đêm nào ông cũng thức khuya để viết
lách, vẽ vời và chép tay lại những bài thơ của ông, để tặng chúng tôi, trong đó có những bài thơ
Đường ông dịch và những bài thơ ông sáng tác chưa bao giờ công bố hoặc là chúng
tôi mới đọc lần đầu như: Hoa Lúa, Những tháp chuông giáo đường… Kỷ niệm đáng nhớ nhất về tính thi sĩ của ông
là một đêm ông đang ngủ bỗng nhiên bật cười lớn, khoái trá và bật dậy, bật đèn,
ghi ghi chép chép. Thì ra ông tìm được những “khoái tự” (hình như là cụm từ
“chàng trơ ngọc”!) cho bài họa của bài xướng "Vịnh Lan Đình" của Hội
thơ Lan Đình Bà Rịa mà hồi tối, trong tiệc
thơ tại sàn thơ của hội thơ Lan Đình ông đã nghe nhà văn Huyền Anh - vợ
thủ đình Phong Hồ diễn ngâm và suốt từ
đó, ông tìm ý tứ, câu chữ cả trong giấc
ngủ:
HỌA VUI THƠ SÀN (*)
Lầu cao chưa chắc đã hơn sàn
Sách quý nào ai nỡ gói hàng
Có rượu có cua mà xách đến
Nào thi nào phú hãy
mang sang
Văn chương ế ẩm chàng trơ ngọc
Tình tự triền miên thiếp mất vàng
Ý hợp tâm đầu bên Thủy Bạc
Thơ thần sang sảng
quát thì tan!
Hữu Loan họa
Hữu Loan học Tây
học, nhưng rất giỏi chữ Hán rất thích dịch thơ Đường, mà chỉ dịch bài nào ông thích thôi. Về khoản chữ Hán và dịch thơ
Đường thì ông và Lão Nông thi sĩ Linh
Đàn, lúc nầy ở Bà Rịa, rất tâm đắc
với nhau. Trong những bản dịch Đường thi mà ông để lại, mấy anh chị em văn nghệ
sĩ Bà Rịa ấn tượng nhất, thích nhất và thuộc luôn là bài "MỜI RƯỢU" ông dịch bài thơ "TƯƠNG TIẾN TỬU" của Lý Bạch, dù trước đó đã đọc bản dịch bài thơ nầy
của nhiều nhà thơ nổi tiếng khác: Tản Đà, Khương Hữu Dụng, Tchia- Đái Đức Tuấn
v.v... Ông đã dùng thứ ngôn ngữ khẩu ngữ
tự nhiên, bình dân rất sinh động đời thường mà thể hiện được phong cách thơ rất
hào phóng, bay bổng lại rất tự nhiên, tinh tế, giản dị và tình cảm phong phú
mãnh liệt của bậc thi tiên nên đọc lên nghe rất “đã đời”:
Người đời ơi đắc chí cứ vui tràn
Chớ để ráo chén vàng khuya trăng ngó
Trời sinh ta tài không để bỏ
Nghìn vàng vung tay trắng xòe lại có
Nướng dê mổ trâu mà
thêm vui
Họp uống nài nhau ba trăm chén một hơi
Riêng bài thơ “Vịnh
Kiều”, một bài thơ rất nổi tiếng của Phạm Quí Thích mà tác giả PQT tự dịch Nôm rất hay, nhưng Hữu Loan chưa hài lòng với câu cuối bản dịch.
Ông cho rằng: “Tân thanh đáo để vị thùy
thương” thì là thương ai? Thương
Nguyễn Du hay thương nàng Kiều? Hay thương cả hai? Và ông cũng đã dùng nhiều từ ngữ bình dân, đời thường để dịch bài
thơ nầy, trong câu cuối
ông gọi Kiều bằng em mà sau nầy có người cho rằng ông dịch rất ngông.
Còn ông thì cả cười: “Mình là con cháu Nguyễn Du mà gọi Kiều bằng
em kể cũng thú vị đấy chứ!”:
Một mảnh tài tình thiên cổ lụy
Khúc này đứt ruột phải vì em
Nhiều bài thơ Đường
khác cũng đã có nhiều bậc thâm nho và các nhà thơ đương đại dịch rồi: “TỐNG HỮU
NHÂN” của Lý Bạch (Khương Hữu Dụng dịch);
“THU HỨNG 1” của ĐỖ PHỦ (Nguyễn Công Trứ dịch); “THU HỨNG 4” của ĐỖ PHỦ (Từ Diễn
Đồng dịch); “Hoàng hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” (**) của Lý Bạch
(Ngô Tất Tố, Trần Trọng San, Trần Trọng Kim, Khương Hữu Dụng, rồi sau nầy là
Trương Nam Hương, Lê Thiên Minh Khoa dịch…), nhưng bản dịch của ông vẫn có nét độc đáo, ý vị riêng…
Những bài Đường
thi ông dịch chép tay để lại được Phong Hồ - Lê Viết Dương, lúc đó là Thủ đình
của Hội thơ Lan Đình giữ, còn chúng tôi thì chuyền tay nhau chép tay lại. Phong
Hồ sau nầy về Sài Gòn rồi phụ trách Trang Thơ Đường báo Đại Đoàn Kết và các Hội
thơ Đường trên toàn quốc của Đại Đoàn Kết.
Bây giờ Phong Hồ mất rồi (1953-2001), những di
bút thơ dịch của Hữu Loan hồi đó biết có còn chăng? Nhưng may quá, nhờ vợ chồng Nguyệt Cầm - Phạm
Hoan còn giữ lại di ảnh, di họa, di bút những bài thơ của ông, trong đó có những
bài ngắn ông viết tặng lúc ở Bà Rịa. Lát nữa, mời bạn đọc thưởng lãm vài di ảnh,
di họa, di bút trong số đó và cả những
bài thơ dịch của Hữu Loan mà chúng tôi chép lại được
NHỮNG BẢN DỊCH THƠ ĐƯỜNG nhà thơ HỮU LOAN chép tay để lại Bà
Rịa.
MỜI RƯỢU
(Hữu Loan “Tương Tiến
Tửu” của Lý Bạch)
Thấy chăng ai, nước Hoàng Hà tuôn thác tự trời cao
Cuộn về khơi trái ngược làm sao
Thấy chăng nữa lầu cao trăng sáng thương cho tóc
Sáng mới tơ xanh chiều đà như tuyết
Người đời ơi đắc chí cứ vui tràn
Chớ để ráo chén vàng khuya trăng ngó
Trời sinh ta tài không để bỏ
Nghìn vàng vung tay trắng xòe lại có
Nướng dê mổ trâu mà thêm vui
Họp uống nài nhau ba trăm chén một hơi
Này Sầm Phu Tử, người Đan Khâu ơi
Đã uống thì luôn tay chén chớ rời
Cùng nhau ta hát khúc, nghiêng tai này bác lắng nghe tôi
Thức ngọc, mâm vàng, trống chiêng sao đủ quí
Ai tỉnh ai say suốt đời thề lúy túy
Trần Vương xưa ban yến Bình Lạc
Rượu đong đấu mười nghìn khách mê tơi khướt
Thánh hiền xưa nay các cái thảy đều im lìm
Duy đấng làng say danh lừng để
Như nghe chủ nhân thì thào thiếu tiền
Uống chớ lại vò, dốc nốt ta cùng mời tôi mời bác
Còn áo cừu nghìn vàng, còn ngựa hoa năm sắc
Hò trẻ đem luôn, rượu đậu tăm sang tất
Cùng bác ta tiêu muôn kiếp sầu đời.
VỊNH KIỀU
(Thơ Phạm Quý Thích, Hữu
Loan dịch)
Giai nhân há phải đến sông Tiền
Nửa kiếp khói hoa nợ chửa đền
Mặt ngọc nhẽ đâu dìm nước vạn
Lòng băng há phụ nghĩa chàng Kim
Đoạn trường tỉnh giấc, căn duyên hết
Bạc mệnh im đàn rú hận lên
Một mảnh tài tình thiên cổ lụy
Khúc này đứt ruột phải vì em
Hữu Loan dịch thơ của Lý Bạch HOÀNG
HẠC LÂU TỐNG MẠNH HẠO NHIÊN CHI QUẢNG LĂNG
TẠI LẦU HOÀNG HẠC TIỄN
MẠNH HẠO NHIÊN
ĐI QUẢNG LĂNG
Xuôi Dương Châu bỏ tây Hoàng Hạc
Tháng ba mây lũ lại xuôi ơi
Buồm đơn bóng tít bầu xanh thẳm
Chỉ thấy dài sông chảy mãi thôi.
Hữu Loan dịch TỐNG HỮU NHÂN của Lý Bạch
TIỄN BẠN
Non dựng xanh lũy Bắc
Nước lượn phau thành Đông
Biệt nhau non nước ấy
Muôn trùng khơi chiếc bồng
Người đi mây du tử
Tình về chiều chiều trông
Vẫy tay thôi cất bước
Ngựa đi nghe xông xông.
Hữu Loan dịch THU HỨNG I của ĐỖ PHỦ
CẢM XÚC MÙA THU 1
Sương bạt rừng phong khua lá cây
Ngàn Vu sương lóa, khí thu dày
Lưng trời tung sóng, triều sông thẵm
Ải khói giăng thành, đất rợp mây
Cúc nở đôi phen, ngày lệ tủi
Vườn xưa thuyền chiếc, buộc niềm tây
Nơi nơi áo rét, rèn dao thớt
Bạch Đế chiều lên, khẩu muộn chày.
Hữu Loan dịch THU HỨNG 4 của ĐỖ PHỦ
CẢM
XÚC MÙA THU 4
Dân kháo đua xưa thiếu chuyện gì
Trò đời trâng tráo nút tai đi
Lâu đài sông núi sang tên số
Bôi lọ râu ria đổi nạ
hề
Cởi dép xách giày
phang mặt trống
Quân đi đội đụn biển
đông về
Cá rồng thin thít
sông thu lạnh
Nước tổ ai làm đến cảnh
kia.
Vài DI BÚT, DI ẢNH,
DI HỌA… của nhà thơ HỮU LOAN cuối thập
niên 80 ở Bà Rịa
Nhà
thơ Hữu Loan qua ký họa của HS Phạm Hoan
Nhà
văn Phạm Thị Nguyệt Cầm và nhà thơ Hữu Loan
tại
Trại sáng tác Long Hải, 1991
Di bút: 2 bài thơ “Những tháp chuông giáo đường” và “Hoa lúa”
...............
(*) Bài xướng:
KHAI HỘI
(LAN ĐÌNH THI HỘI)
Bến sông dựng tạm một nhà sàn
Tre nứa đơn sơ buộc mấy
hàng
Mượn chữ Lan Đình mừng
bạn đến
Nhờ thơ xướng họa gởi
tình sang
Dẫu không gác tía
không người ngọc
Thì cũng trăng thanh
cũng bạn vàng
Núi dựng thành xa bờ lặng
sóng
Tiếng thơ đồng vọng
mãi không tan
Hội Thơ Lan Đình Bà Rịa
(**)
Nguyên văn, phiên âm, dịch nghĩa và các bản dịch bài “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo
Nhiên chi Quảng Lăng” của Lý Bạch:
Nguyên văn:
黃鶴樓送孟浩然之廣陵
故人西辭黃鶴樓,
煙花三月下陽州。
孤帆遠影碧空盡,
惟見長江天際流。
Phiên âm:
Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu,
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.
Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.
Dịch nghĩa:
Bạn cũ từ biệt tại lầu Hoàng Hạc đi về phía tây,
Tháng ba hoa khói, xuống Dương Châu.
Bóng chiếc buồm đơn màu xanh mất hút,
Chỉ thấy Trường Giang vẫn chảy bên trời.
Bản dịch của Trần Trọng San:
Bạn cũ dời chân Hoàng Hạc lâu
Tháng ba hoa khói xuống Dương Châu
Bóng buồm chìm lẫn trong trời biếc
Chỉ thấy Trường Giang vẫn chảy mau
Bản dịch của Trần Trọng Kim:
Phía tây bạn biệt Hạc lâu
Tháng ba trẩy xuống Dương Châu thuận dòng
Cánh buồm bóng hút màu không
Trông xa trắng xoá nước sông bên trời
Bản dịch của Ngô Tất Tố:
Bạn từ lầu Hạc lên đường
Giữa mùa hoa khói châu Dương xuôi dòng
Bóng buồm đã khuất bầu không
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời
Bản dịch của Khương Hữu Dụng:
Hoàng Hạc lầu xưa bạn cũ rời
Dương Châu hoa khói tháng ba xuôi
Buồm đơn bóng hút vào xanh biếc
Chỉ thấy Trường Giang chảy cuối trời
Bản dịch của Nguyễn Kỷ Niệm:
Bạn cũ rời tây Hoàng Hạc lâu,
Tháng ba hoa khói, xuống Dương Châu.
Buồm đơn, bóng lẫn vào mây biếc,
Chỉ thấy Trường Giang xuôi mãi đâu...
Bản dịch của Trương Nam Hương:
Từ tây lầu Hạc - người xa
Tháng ba hoa khói xuôi nhòa Dương Châu
Chấm buồm hút thẳm xanh sâu
Thấy Trường Giang vắt ngang bầu trời trôi
Bản dịch của Lê Thiên Minh Khoa:
Cố nhân xa lầu Hoàng Hạc rồi
Tháng ba hoa khói Dương Châu xuôi
Buồm đơn xa khuất bầu không biếc
Chỉ thấy Trường Giang hút cuối trời.
(Trích trong cuốn sách “Lại Nghĩ Về Thơ” – tiểu
luận, phê bình – Lê Thiên Minh Khoa, sắp xuất bản, 2019, trang 32-43)
Lê Thiên Minh Khoa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét