Nguồn:
Người Hà
Đông nói: “Ông ấy hay chữ..” Ý họ muốn nói ông Phan Điện học nhiều nhưng ông
thi không đỗ; ông bất đắc chí nên ông điên dở.
https://kontumquetoi.com/2019/01/11/doc-lai-lay-anh-hay-chu-cua-cthd-hoang-hai-thuy-nguoi-vua-tienthuyalice-da-di-truoc-roi/
Nhà văn Hoàng Hải Thủy
ĐỌC “LẤY ANH HAY CHỮ”
CỦA CÔNG TỬ HÀ ĐÔNG HOÀNG HẢI THUỶ
CỦA CÔNG TỬ HÀ ĐÔNG HOÀNG HẢI THUỶ
Chẳng tham ruộng cả, ao
liền.
Tham vì cái bút, cái
nghiên anh đồ.
Đôi bên bác mẹ thì già.
Lấy anh hay chữ để mà cậy
trông.
Tôi – CTHĐ –
nghe hai tiếng “hay chữ” năm tôi mười tuổi. Người được gọi là “người hay chữ”
những năm 1940 ở tỉnh lỵ Hà Đông là ông Phan Điện, thân phụ của hai ông Phan
Anh, Phan Mỹ. Nhà ông Phan Điện và nhà tôi gần nhau. Những năm xưa ấy tôi thường
thấy ông. Ông người thấp, mập, đầu trọc, ông chuyên mặc bộ áo cánh, quần nâu,
đi đôi guốc gỗ, tay xách cây ba-toong. Không một lần tôi thấy ông mặc áo dài
ta, đội khăn, Ông hay dọa trẻ con. Ông lấy việc bắt nạt trẻ con làm vui. Trẻ
con, tuổi tôi, 10, 12 tuổi, gập ông trên phố, nếu đang đứng nghe ông hô:
“Oong...” là phải ngồi xuống, ông hô: “Đơ...” mới được đứng lên.
Có lần tôi
đang đánh bi với bạn tôi trên vỉa hè, nghe tiếng hô: “Ooong...” vang lên, ngoảnh
nhìn tôi thấy ông Điện đứng ngay sau lưng, tay ông cầm cây ba-toong giơ lên,
tôi líu ríu đứng dậy. Tôi sợ nhưng tên bạn tôi không sợ. Nó tỉnh queo nhìn ông,
nó cưới hi hi rồi bỏ đi, ông chẳng làm gì được nó.
Một mùa hè
năm 1941 hay 1942, ông Phan Anh về Hà Đông sống ít ngày với ông bố. Khi ông trở
ra Hà Nội, ông gọi xe kéo đến chở ông và cái rương hành lý của ông ra bến xe điện.
Đợi cho ông con ngồi lên xe và xe bắt đầu chạy, ông Đồ Điện sắn quần, chạy theo
đẩy xe, ông Phan Anh vội nhẩy xuống xe, chắp tay lậy ông bố, rồi ông đi bộ theo
xe. Nhiều người hàng phố nhìn thấy cảnh này. Tôi không được chính mắt nhìn thấy.
Tôi nghe chuyện do mẹ tôi kể.
Đây là đoạn
văn ghi về ông Phan Điện trên Internet:
Phan Điện
(1875-1945), thường được gọi là Cố Điện hay Đầu xứ Điện. Ông sinh năm Ất Hợi
1875, quê làng Tùng Ảnh, huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, cư ngụ và sinh sống tại tỉnh
Hà Đông.
Ông xuất
thân trong một gia đình khoa bảngi tại Nghệ Tĩnh. Ông là một nhà nho Xứ Nghệ vừa
duy tân vừa thủ cựu, chống đối chế độ bảo hộ Pháp, căm ghét triều Nguyễn bất lực
để mất nước.
Sau cuộc khủng
bố nghĩa quân Phan Đình Phùng do Nguyễn Thân cầm đầu, Phan Điện ra Bắc ( Hà
Đông) mưu sinh bằng nghề dạy học cho đến khi qua đời đầu năm Ất Dậu 1945.
Ông thường tỏ
nỗi bất bình trước bọn xu phụ thực dân, bọn tay sai bán nước nên cuộc đời cũng
như thơ văn của ông đều tượng trưng cho tinh thần của giới trí thức chống đối
cường quyền đang lộng hành trong xã hội. Ông để lại nhiều vần thơ tự sự và trào
phúng tỏ rõ khí tiết của mình, nay đã biên soạn thành tập thơ Phan Điện.
Hai con trai
ông là Phan Anh và Phan Mỹ, đều là những trí thức tại Việt Nam giữa thế kỷ 20,
hai ông từng giữ chức Bộ trưởng trong chính phủ Hồ chí Minh.
Hai bài thơ
của ông Phan Điện.
VUA RA ĐỨC THỌ
Xiếc vùng Đức Thọ có
vui không?
“Cóc nhái” hôm nay được
thấy rồng!
Gái đạo phát tài cười mủn
mỉn
Trai “lương”phải tội chạy
long tong.
Mề đay xiết kể ơn Hoàng
Thượng;
Tường đổ thương thay lũ
tiểu đồng!
Đố biết vì ai nên nỗi
thế?!
-Vì quan sở tại khéo
tâng công!
Người dân Đức
Thọ đứng bên đường xem xe vua đi qua, một bức tường đổ làm hai ba em nhỏ bị
thương.
GỬI HỌC TRÒ LÀM LÝ TRƯỞNG
Anh làm Lý trưởng phải
thương dân
Chớ có như ai chỉ vị
thân.
Các cụ vào ra thường đỡ
gậy
Đàn trai giàu có vẫn cầm
cân.
Thuế sưu miễn đủ cho
nhà nước
Xôi thịt đừng đua mượn
tiếng thần
Thầy sợ đi qua nghe
chúng chưởi;
Chưởi: “Tiên sư nó,chỉ
hay ăn!”
o O o
Nhà văn Hoàng Hải Thủy
Tháng Mười
2016, Thu trở về trên Rừng Phong. Đêm xứ người, phòng vắng, đèn vàng, yên lặng.
Tôi ấp quyển sách lên ngực, nhắm mắt, lắng nghe cái yên lặng đêm Kỳ Hoa Đất
Trích.
Tôi nhớ lời
anh Văn Phụng:
“Tôi một
mình lái xe vào sa mạc, nằm nghe cái yên lặng của sa mạc ban đêm.”
Đêm khuya,
tôi đọc Sử Ký Tư Mã Thiên, đoạn ông viết
về việc ông bênh vực Tướng quân Lý Lăng
mà bị bọn Vua Quan nhà Hán ghép tội, ông bị “cung hình.” Hình phạt cắt bộ phận sinh dục.
Đây là lời
trần tình của ông: Tư Mã Thiên, Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê.
Tôi với Lý
Lăng đều giữ chức Thị Trung từ trước chưa hề có chút giao tình, ai đi đường nấy,
chưa tùng uống với nhau một chén rượu, ân cần tiếp đãi, hoan hỉ với nhau lấy một
lần.
Nhưng tôi
xét ông ấy là người biết tự giữ khí tiết lạ, thờ cha mẹ có hiếu, thủ tín với kẻ
sĩ, về tiền bạc thì thanh liêm, trọng nghĩa, về sự phân biệt trên dưới thì có lễ
nhượng; tánh cung kiệm, khiêm tốn, thường hăng hái, chẳng tiếc thân, hy sinh
cho quốc gia lúc nguy cấp, xét hoài bão của ông ấy thì thấy có phong độ của một
vị quốc sĩ. Bực nhân thần ra vào chỗ vạn tử mà chẳng đói hoài đến đời mình, ứng
phó với cơn nguy của quốc gia như vậy, tôi cho đã là lạ rồi. Nay ông ấy hành động,
cử sự có điều gì không thỏa đáng, mà bọn bề tôi chỉ lo bảo toàn thân mình để
nuôi vợ con kia lại nhân đó mà xoi mói
gây tội cho ông ấy, lòng tôi riêng thật buồn thay!
Vả lại Lý
Lăng dắt theo không đầy năm ngàn bộ binh, vào sâu chiến địa, giẫm lên vương
đình của Hung Nô, như nhử mồi miệng cọp, khiêu động cường Hồ, tấn công hằng vạn,
hằng ức địch, giao chiến với Thiền Vu trên mười ngày liền, số quân địch bị giết
lớn hơn số quân của mình, đến nỗi chúng không kịp cứu những kẻ bị thương. Các
Chúa bận áo nỉ và lông cừu đều hoảng sợ, phải vời cả hai viên tả hữu hiền
vương, thống suất bọn đeo cung tên trong toàn quốc, tấn công mà vây ông. Lăng
xông đánh xa đến ngàn dậm. Đường nghẽn, tên hết, cứu binh không tới, sĩ tốt tử
thương thây chất thành đống. Vậy mà Lý Lăng hô lên một tiếng, ủy lạo quân sĩ
thì không ai không phấn khởi, nước mắt dòng dòng, máu chẩy đầy mặt, nghẹn ngào
nuốt lệ, lại dương cây cung hết tên để chống với lưỡi gươm trắng, hướng về
phương Bắc, tranh nhau chết với quân địch.
Hồi Lý Lăng
chưa bại trận, sai người về báo tiệp, các bậc công khanh vương hầu triều Hán đều
dâng chén chúc thọ vua. Vài ngày sau, thư chiến bại truyền về, Chúa thượng ăn hết
ngon, ra chầu hết vui, các vị đại thần lo lắng, không biết làm sao. Tôi trộm
không tự liệu thân mình hèn mọn, thấy Chúa thượng thê thảm, bi thương, những muốn
gắng tỏ tấm lòng ngu trung thực của mình, cho rằng Lý Lăng từ trước cùng với
các bậc sĩ, đại phu đồng cam, cộng khổ, mới được người ta tận lực giúp đỡ, như
vậy dù các danh tướng thời xưa cũng không hơn ông. Hiện nay thân ông tuy phải đầu
hàng, nhưng xem ý chắc là muốn đợi cơ hội thuận tiện để chuộc tội với nhà Hán.
Sự tình đã không biết làm sao, nhưng cái công trước kia đánh Hung Nô tàn bại,
cũng đủ phơi ra trong thiên hạ rồi.
Tôi muốn
trình bầy lý lẽ đó nhưng chưa có cơ hội thì vừa gập lúc Chúa công vời hỏi, tôi
bèn tỏ công lao của Lăng như trên, để lòng Chúa thượng được mở ra mà những lời hãm hại bị lấp đirộng, mà những
lời hãm hại bị lấp đi. Nhưng tôi chưa kịp tỏ hết lẽ của mình, Chúa vội không hiểu,
cho rằng tôi ngăn cản nhị sư tướng quân, thuyết hộ Lý Lăng, và giao tôi cho
quan coi ngục. ( .. .. .. )
Nhà tôi
nghèo, không có tiến để chuốc tội, bạn bè không ai cứu giúp, các quan không ai
nói hộ cho một lời. Thân không phải là gỗ đá – ( làm sao không đau đớn ) – làm
bạn với người coi ngục trong chốn thâm u, biết giãi bầy với ai?
Tôi tuy khiếp
nhược, muốn được cẩu hoạt, nhưng cũng phân biệt được lẽ phải chăng, mà sao đến
nỗi tự dìm vào cái nhục cùm trói như vậy? Bọn tôi tớ, tì thiếp còn biết giữ tiết,
tự quyết được, huống hồ là tôi lại không hiểu cái lẽ có khi bất đắc dĩ phải chết
sao? Tôi sở dĩ ẩn nhẫn cẩu hoạt , chịu sống tối tăm trong cảnh dơ dáy là vì hận
rằng lòng riêng có chỗ chưa được bộc lộ hết, bỉ lậu mà chết đi thì văn chương
không tỏ ra được với đời sau.
Đời xưa những
kẻ giầu sang mà tên tuổi tiêu ma, có biết bao nhiêu mà kể, chỉ những người lỗi
lạc, phi thường mới lưu danh thôi. Cho nên Vua Văn Vương bị giam rồi mới diễn bộ
Chu Dịch, Trọng Ni khốn đốn rồi mới soạn bộ Xuân Thu; Khuất Nguyên bị đuổi về rồi
mới viết thiên Li Tao, Tả Khâu mù rồi mới có bộ Quốc Ngữ; Tôn Tử bị chặt chân rồi
mới trứ thuật bộ Binh Pháp; Bất Vi bị đầy ra đất Thục rồi mà bộ Lữ Giám mới
truyền lại ở đời; Hàn Phi bị giam ở Tần rồi mới có những thiên Thuế Nan, Cô Phẫn;
ba trăm thiên Kinh Thi, đại để do những vị hiền thánh phát phẫn mà trứ tác, .
Những vị đó trong lòng đều có nỗi uất kết, không làm thông tỏ được đạo của
mình, cho nên mới thuật lại chuyện cũ mà nghĩ đến đời sau. Như Tả Khâu mù rồi,
Tôn Tử què rồi, suốt đời vô dụng mới lui về mà trứ thư, lập ngôn, để vơi lòng
phẫn uất, lưu lại văn chương suông để phát biểu chí hướng của mình.
Tôi không tự
lượng sức mình, tự ký thác chí hướng vào lời văn thô thiển, thu thập những việc
cũ tản mác trong thiên hạ, khảo cứu qua loa về các sự tích, tung hợp đầu đuôi,
ghi lại những mối thành bại, hưng vong, trên từ đời Hiên Viên, dưới tới ngày
nay, viết thành mười thiên biểu, mười han thiên bản kỉ, tám chương thư, ba mươi
thiên thế gia, bẩy mươi thiên liệt truyện, gồm cả thẩy một trăm ba mươi thiên,
cũng là muốn nghiên cứu đạo lí trong thiên hạ, tìm những lẽ biến hóa xưa nay, lập
thành học thuyết của một nhà. Sáng tác chưa xong thì gặp họa, tiếc công việc
chưa thành nên chịu nhục hình mà không có sắc giận. Tôi như quả viết xong bộ
đó, đem cất nó vào danh sơn, truyền nó cho đồng chí, quảng bá ra khắp đô ấp,
thì cũng bù được cái nhục bị trách phạt, dù tôi có vạn lần bị giết tôi cũng chẳng
hối tiếc. Nhưng điều đó chỉ có thể nói với bực trí giả mà khó nói với bọn tục
nhân.
Trong đêm
khuya, tôi đọc được trong sách chuyện Thức tự đa ưu hoạn.
Cả câu thơ
là: Nhân sinh thức tự đa ưu hoạn (Người biết chữ gập nhiều lo âu và tai họa.)
Câu Thơ trên
trong bài Thơ Mạn hứng
Phác tán thuần ly thánh
đạo nhân,
Ngô nho sự nghiệp yểu
vô văn.
Phùng thời bất tác
Thương Nham vũ,
Thối lão tư canh Cốc Khẩu
vân.
Mỗi thán bách niên đồng
quá khách,
Hà tằng nhất phạn nhẫn
vong quân.
Nhân sinh thức tự đa ưu
hoạn,
Pha lão tằng vân, ngã diệc vân.
Nguyễn Trãi
Dịch nghĩa
Những gì gọi là thuần phác đều tan
rã, đạo Thánh bị chìm mất.
Sự nghiệp của nhà nho ta lu mờ chẳng
có tiếng tăm gì
Gặp thời chẳng tạo được mưa ở Thương
Nham
Lúc già trở về cày mây ở Cốc Khẩu
Thường than trăm năm của cõi đời y
như khách qua đường
Chưa từng lúc nào ăn một bữa cơm mà
không nhớ đến vua
Con người sinh ra biết chữ nghĩa gặp
nhiều nạn phải lo lắng
Ông già Tô (Tô Đông Pha) hằng nói thế,
ta cũng nói thế.
Hai câu
trong bài Thơ làm tôi xúc động:
Nhân sinh thức tự đa ưu
hoạn.
Pha lão tằng vân, ngã
diệc vân.
Người biết chữ gập nhiều
buồn lo và tai họa.
Lão Pha từng nói thế,
ta cũng nói thế.
Một trong những
“người thức tự” tôi được thấy sống, viết, bị tù và chết trong tù là Dương Hùng
Cường.
o O o
NHỮNG BÀI THƠ MÙA THU TÔI YÊU:
EM CÒN NGHE TIẾNG
(Quang Dũng)
Ðường về quê hương, về
quê hương
Không thấy quê hương,
chỉ thấy đường.
Em đã đi trên đường nhựa
ấy
Hai mươi năm trước lá
thu vàng.
Ðường về quê hương, về
quê hương
Em mặc áo vàng hay áo
tím
Mắt em lơ đãng nhìn
chân mây
Anh vịn thành xe, tay
trong tay.
Ðường về quê hương, về
quê hương
Có một ngày sao mà bất
tận
Hai mươi cây số tưởng
vô vàn
Dài đến bây giờ vẫn chứa
chan.
Ôi con chim đậu nhành
giây điện
Lại giống ngày xưa chuyện
nắng thu
Em đã xa rồi – chim gọi
nắng
Em còn nghe tiếng nữa
bao giờ.
VƯỜN XƯA
(Tế Hanh, 1957)
Mảnh vườn xưa cây mỗi
ngày mỗi xanh
Bà mẹ già tóc mỗi ngày
mỗi bạc
Hai ta ở hai đầu công
tác
Có bao giờ cùng trở lại
vườn xưa?
Hai ta như ngày nắng
tránh ngày mưa
Như mặt trăng mặt trời
cách trở
Như sao hôm sao mai
không cùng ở
Có bao giờ cùng trở lại
vườn xưa?
Hai ta như sen mùa hạ
cúc mùa thu
Như tháng mười hồng
tháng năm nhãn
Em theo chim đi về
tháng tám
Anh theo chim cùng với
tháng ba qua
Một ngày xuân em trở lại
nhà
Nghe mẹ nói anh có về
anh hái ổi
Em nhìn lên vòm cây gió
thổi
Lá như môi thầm thì gọi
anh về
Lần sau anh trở lại một
ngày hè
Nghe mẹ nói em có về
bên giếng giặt
Anh nhìn giếng giếng
sâu trong vắt
Nước như gương soi lẻ
bóng hình anh
Mảnh vườn xưa cây mỗi
ngày mỗi xanh
Bà mẹ già tóc mỗi ngày
mỗi bạc
Hai ta ở hai đầu công
tác
Có bao giờ cùng trở lại
vườn xưa?
o O o
THƠ ĐINH HÙNG.
Tháng Bẩy
vào thu, nhớ Sài Gòn mưa sa, chúng ta trở lại Sài Gòn với Thơ Ðinh Hùng:
Từng cơn mưa lạnh đến dần,
Ðời chưa trang điểm mà
xuân đã về.
Hững hờ để nước trôi
đi.
Giấc chiêm bao hết, lấy
gì mà say.
Quê ai đầm ấm đâu đây,
Cho tôi về sống mấy
ngày trẻ thơ.
Ước gì trăng gió đón
đưa,
Mắt chờ gặp mặt, tay chờ
cầm tay.
Cảm lòng, nhận chút
hương bay,
Tình thương đất bạn, cỏ
cây là người.
Quê nhà ai sẵn nụ cười,
Núi sông hồn hậu, Ðất
Trời bao dung.
Cho tôi về hưởng xuân
cùng,
Bao giờ hoa nở thì lòng
cũng nguôi.
*****
Hãy dừng lại, hỡi muà
hoa hồng phấn!
Mấy hoàng hôn, mái tóc
đã sang thu.
Chĩu hàng mi, lá uá rụng
tình cờ,
Tờ thư lạnh, gió sương
bay dòng chữ.
Thương tâm sự, mưa sa
vành nón cũ.
Anh ngờ Em mang cả núi
non đi.
Hoa quay đầu, cánh bướm
cũng vu qui.
Nhòa nắng cũ, nụ cười
mây khói toả.
*****
Nhắc làm chi? Ôi! Nhắc
làm chi nưã?
Em đi rồi, mưa gió suốt
trang thơ.
Mây lià ngàn, e lệ cánh
chim thu.
Con bướm ép, thoát hồn
mơ giấc ngủ.
Anh trở gót, hương đưa
về núi cũ.
Theo mây bay, tìm mãi
hướng trăng thề.
Nhắc làm chi! Còn nhắc
nữa làm chi!
*****
Em đến hôm nào, mưa
trên vai,
Chiều thu sương đượm
nét mi dài.
Nụ cười rung cánh hoa hờn
giận,
Trong mắt Em còn bóng
dáng ai?
*****
Mắt lặng nhìn nhau từ
dĩ vãng,
Chợt xanh mầu áo nhớ
thương xưa.
Bóng Em khoảnh khắc
thành hư ảo,
Buồn lướt hàng mi thấp
thoáng mưa.
******
Giữa đêm lòng bỗng
hoang vu,
Gối chăn nghe cũng tình
cờ quan san.
Bước thu chừng sớm lìa
ngàn,
Nhớ giây nguyệt lạnh,
cung đàn thương hoa.
Em về rũ tóc mưa sa,
Năm canh chuốt ngón tỳ
bà khói sương.
Rời tay nhịp phách đoạn
trường,
Hồn đêm nay thấm mùi
hương năm nào?
Sầu che nửa mặt chiêm
bao,
Dòng mưa thu lệ, chìm
vào phấn son.
Nét mày cong vút núi
non,
Mông mênh xiêm trắng,
linh hồn vào thu.
BÀI HÁT MÙA THU
Hôm nay có phải là thu
?
Mây năm xưa đã phiêu du
trở về .
Cảm vì em bước chân đi,
Nước nghiêng mặt ngọc
lưu ly phớt buồn.
Ai về xa mãi cô thôn,
Một mình trông khói
hoàng hôn nhớ nhà ?
Ngày em mới bước chân
ra,
Tuy rằng cách mặt, lòng
ta chưa sầu .
Nắng trôi vàng chẩy về
đâu ?
Hôm nay mới thực bắt đầu
vào thu .
Chiều xanh trắng bóng
mây xưa,
Mây năm xưa đã phiêu du
trở về .
Rung lòng dưới bước em
đi,
Lá vàng lại gợi phân ly
mất rồi!
Trời hồng, chắc má em
tươi,
Nước trong, chắc miệng
em cười thêm xinh.
Em đi hoài cảm một
mình.
Hai lòng riêng để mối
tình cô đơn.
Hôm nay tưởng mắt em buồn:
Đã trông thấp thoáng ngọn
cồn, bóng sương.
Lạnh lùng chăng, gió
tha hương?
Em về bên ấy, ai thương
em cùng?
KỲ NỮ
Ta thường có từng buổi
sầu ghê gớm
Ở bên Em — ôi biển sắc,
rừng hương!
Em lộng lẫy như một
ngàn hoa sớm,
Em đến đây như đến tự
thiên đường.
Những buổi đó, ta nhìn
em kinh ngạc,
Hồn mất dần trong cặp mắt
lưu ly,
Ôi mắt xa khơi ! Ôi mắt
dị kỳ !
Ta trông đó thấy trời
ta mơ ước.
Thấy cả bóng một vầng
đông thuở trước,
Cả con đường sao mọc
lúc ta đi,
Cả chiều sương mây phủ
lối ta về,
Khắp vũ trụ bỗng vô
cùng thương nhớ.
Ta run sợ, cho yêu là mệnh
số,
Mặc tay em định hộ kiếp
ngày sau.
Vì người em có bao phép
nhiệm mầu,
Một sợi tóc đủ làm nên
mê hoặc.
Ta đặt em lên ngai thờ
Nữ Sắc,
Trong âm thầm chiêm ngưỡng
một làn da.
Buổi em về xác thịt tẩm
hương hoa,
Ta sống mãi thở lấy hồn
trinh tiết.
Ôi cám dỗ! Cả mình em
băng tuyết,
Gợn xuân tình lên bộ ngực
thanh tân.
Ta gần em, mê từng ngón
bàn chân,
Mắt nhắm lại, để lòng
nguôi gió bão.
Khi sùng bái, ta quỳ
nâng nếp áo,
Nhưng cúi đầu trước vẻ
ngọc trang nghiêm.
Ta khẩn cầu từng sớm lại
từng đêm,
Chưa tội lỗi, đã thấy
tràn hối hận.
Em đài các, lòng cũng
thoa son phấn,
Hai bàn chân kiêu ngạo
dẫm lên thơ.
Ôi vô lương ! Trong một
phút không ngờ,
Ta đã muốn trở nên người
vô đạo.
Tất cả em đều bắt ta khổ
não,
Và oán hờn căm giận tới
đau thương.
Và yêu say, mê mệt tới
hung cuồng,
Và khát vọng đến vô
tình, vô giác.
Hỡi Kỳ Nữ! Em có lòng
tàn ác,
Ta vẫn gần – ôi sắc đẹp
yêu ma !
Lúc cuồng si, nguyền rủa
cả đàn bà,
Ta ôm ngực nghe trái
tim trào huyết.
Ta sẽ chết ! Sẽ vì em
mà chết !
Một chiều nào tắt thở
giữa môi hôn,
Ta hái trong em lấy đóa
hoa hồn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét