Tác giả Nguyên Lạc
QUẺ
DỊCH, CÁCH LẬP VÀ GIẢI ĐOÁN
(Bài 1)
Nguyên
Lạc
Cẩn báo: Cụ Nguyễn Hiến Lê có nói: "Muốn học điều gì thì hãy viết về điều đó". Theo tinh thần đó, chúng tôi đang học về Kinh Dịch, nên xin viết ra đây những gì mình đã học được từ người xưa, từ các
bậc tiền bối... Xin hiểu cho, đây chỉ là những ghi chép vụn vặt trong quá trình học hỏi, nên chắc nó sẽ có rất nhiều thiếu sót, mong các bậc cao minh bỏ quá cho! Nếu các bạn tìm thấy có ít nhiều điều hữu ích thì tốt, còn nếu không, coi như "Mua
vui cũng được một vài
trống canh"
Ở đời muôn
sự của chung
Hơn nhau ở chỗ
biết dùng hay không!
Bói
Dịch không phải là
mê tín, nó là khoa học. Có thể gọi là khoa học huyền bí.
Vì vậy, Tiến sĩ Phân
tâm học C.G. Jung (
ông cùng với S. Freud là một trong những thủy tổ của khoa Phân Tâm Học, nghiên cứu về tiềm thức của loài người)
năm 1949 đã dùng bói Dịch để biết việc quảng bá và giới thiệu Dịch (I Ching) từ tiếng Đức sang tiếng Anh có đuoc thuận lợi hay không?. Bói được rất tốt, ông
tiến hành và Dịch đã
trở thành kinh điển cho các
học giả và các trường đại học Tây
Phương học hỏi!
Có 2 lý do để tôi viết bài này:
1/
Chúng ta chỉ sợ những gì mình không hiểu. Thí dụ như sợ Ma, vì
chúng ta không biết rõ Ma là gì?. Nếu biết thì sẽ không sợ.
Cũng vậy, chúng ta sợ chết, vì không biết
chết ra sao, sau khi chết như thế nào?. Nếu chúng
ta biết rõ thì chắc chúng
ta cũng sẽ không sợ. Đó là lý do Phật giáo
khuyên chúng ta nên tìm hiểu về sự chết (Tử)!(*)
Tôi
viết bài này mong độc giả tìm hiểu rõ
về Bói Dịch,
không sợ nó nữa, để các ông thầy Bói
toán, Phong thủy (giả), vì tư lợi, không còn
"hù" ta được nữa. Bói
Dịch mà vì tư lợi sẽ không
bao giờ linh ứng
2/ Kinh Dịch là 1 trong 5 Kinh chính của triết lý Đông Phương.
Các nhà trí thức (nho gia) xưa phải lào thông nó mới có thể đi thi. Điều đó chứng tỏ nó rất quan trọng. Bói Dịch rất khó hiểu đối với các người trẻ, người mới bắt đầu. Ngay cả sách được cho là kinh điển của cụ Ngô
Tất Tố, phần giải thích về bói
cũng rất khó hiểu. Tôi
mong làm nó đơn giản, dễ hiểu hơn, giúp cho các bạn trẻ, ai muốn tìm hiểu, sẽ dễ dàng
hơn, hầu mong giữ gìn những quý
giá của ông cha không bị mai một!
Lại nữa, ý
của Dịch cho rằng
con người tự mình vẫn có thể sửa đổi được số mạng của mình một phần nào. Thế thì tại sao chúng ta không tự tìm hiểu, tự bói quẻ tìm phương thức đối ứng, mà
phải nhờ người khác
làm cho mình? Có biết
chắc họ thật sự là bậc Thức giả không? Ở đời, biết đâu hư biết đâu thực, biết đâu chân biết đâu giả?! (Nguyên
Lạc)
NHẬP MÔN KINH DỊCH
ĐẠI CƯƠNG VỀ QUẺ DỊCH
Kinh
Dịch
Kinh
Dịch
là một
trong ba bộ kinh
cổ nhất
của
Trung quốc,
sau Kinh Thi và Kinh Thư, nhưng nguồn
gốc
của
nó (tức
bát quái) thì có thể sớm
hơn, vào cuối
đời
Ân, khoảng
1.200 năm trước
Tây Lịch.
Nó
không do một
người viết,
mà do nhiều
người góp sức
trong một
ngàn năm, từ Văn Vương
nhà Chu mãi đến
đầu
đời
Tây Hán.
Điều
kỳ dị nhất
của
Dịch
là nó chỉ dựng
trên thuyết
âm dương, trên một
vạch
liền
____ tượng
trưng cho dương, một vạch
đứt
__ __ tượng trưng cho âm. Hai vạch
đó chồng
lên nhau,
đổi
lẫn
cho nhau nhiều
lần
thành ra tám hình bát quái, rồi tám hình bát
quái này lại chồng
lẫn
lên nhau thành sáu mươi bốn hình mới:
Lục
thập
tứ quái.
Dùng
sáu mươi bốn
hình này, người ta diễn được tất
cả các
quan niệm
về vũ
trụ,
nhân sinh.
Từ những
hiện
tượng trên trời
dưới đất,
những
luật
thiên nhiên cho tới
những
công việc
thường ngày như trị nước, ra quân,
trị nhà,
cưới hỏi,
ăn uống,
xử thế...
-- Mới
đầu
chỉ có
lưỡng nghi: dương (vạch liền: ___ ) và âm (vạch
đứt: _ _ )
--
Bên dương, nếu
lấy
dương chồng
lên dương, rồi
lấy
âm chồng
lên dương, chúng ta sẽ được
hai hình tượng:
- (vạch
dương/ vạch
dương): thái dương
- (vạch
âm/ vạch
dương): thiếu
dương
Bên
âm cũng vậy,
nếu
lấy
âm chồng
lên âm, rồi
lấy
dương chồng
lên âm, chúng ta sẽ được hai
hình tượng nữa:
- (vạch
âm/ vạch
âm): thái âm
- (vạch
dương/ vạch
âm): thiếu
âm
Như
vậy
được bốn
hình tượng, gọi
là tứ tượng.
Tứ tượng
có tên: Thái dương, thiếu
dương, thái âm, thiếu âm
--
Sau cùng, lấy
dương lần
lượt chồng
lên cả bốn
hình trên, chúng ta sẽ được 4 hình:
Ly
(Li) , Càn (Kiền)
, Tốn
, Cấn.
Rồi
lấy
âm lần
lượt chồng
lên cũng cả bốn
hình đó, chúng ta sẽ được thêm 4 hình nữa:
Chấn
, Ðoài (Đoái) , Khảm , Khôn.
Hình
1: Sự hình
thành bát quái
Như vậy được hết thảy 8 hình gọi là bát quái (tám quẻ). Mỗi
quẻ có 3 vạch (gọi là 3 hào), xuất hiện lần lần từ dưới lên trên. Cho nên khi gọi
tên hào, khi đóan quẻ, phải đếm và xét từ dưới lên trên: Hào dưới (cũng là hào
1), rồi lên hào 2, hào 3...
Bát
quái
Số
của Bát quái / Hành
☰ : Càn (hay Kiền) vi thiên là trời có đức cứng mạnh, là đàn
ông.
1
Kim
☷ : Khôn vi địa là đất, có đức nhu thuận, là đàn bà.
8
Thổ
☲ : Ly vi hỏa là lửa, sáng.
3
Hoả
☵ : Khảm vi thủy là nước, hiểm trở.
6
Thuỷ
☶ : Cấn vi sơn là núi, yên tĩnh.
7
Thổ
☱ : Đoái (hay Đoài) vi trạch là chầm (đầm), vui vẻ.
2
Kim
☴ : Tốn vi phong là gió, vào.
5
Mộc
☳ : Chấn vi lôi là sấm, động.
4
Mộc
Các
bạn
phải
thuộc
rõ 8 hình trên, trông thấy hình nào, thì
phải
gọi
được tên của
nó. Ngược lại
hể nghe
thấy
nói tên quẻ nào,
thì phải
vẽ ngay
được hình nó.
Bạn có thể theo cách này:
Trước
hết
chúng ta bỏ qua
quẻ Càn
và quẻ Khôn
đi, vì ai cũng cũng nhớ ngay rồi,
còn lại
6 quẻ:
- 3
quẻ có
1 hào âm (một
vạch
đứt):
quẻ Ly,
quẻ Đòai,
quẻ Tốn.
- 3
quẻ còn
lại
Khảm,
Cấn,
Chấn
đều
có một
hào dương (một
vạch
liền).
Chúng
ta chỉ cần
nhớ vị trí ba vạch đứt trong 3 quẻ có
1 hào âm thôi:
- Quẻ Ly
là lửa
thì vạch đứt ở giữa: Như hình miệng
lò.
- Quẻ Đòai
là chầm
(đầm)
thì vạch đứt ở trên cùng: Như chỗ trũng
trên mặt
đất.
- Quẻ Tốn
là gió thì vạch đứt tất phải ở dưới cùng: Vạch
đứt
(âm) đó tượng trưng sự mềm mại,
dịu
dàng của
gió.
Nhớ như
vậy
rồi
thì vẽ được ba quẻ đó, vì hai hào kia
của
mỗi
quẻ là
vạch
liền
(dương).
Vẽ được 3 quẻ đó rồi
thì vẽ được ba quẻ trái với
chúng về ý
nghĩa cũng như về các
vạch:
- Khảm
(nước) trái với
Ly (lửa),
thì gồm
một
vạch liền (dương) ở giữa còn lại
hai vạch kia
đứt
- Cấn
(núi) trái với
Đòai (đầm):
núi nổi
lên trên mặt
đất,
đầm
trũng xuống,
thì gồm
một vạch liền (dương) ở trên cùng, còn lại
hai vạch
kia đứt
(âm).
- Chấn
(sấm):
trái với
Tốn
(gió): Chấn
(sấm)
động
mạnh,
còn Tốn
(gió) thổi
nhẹ
thì gồm vạch liền (dương) ở dưới cùng, còn lại
hai vạch
kia đứt
(âm).
Trùng
quái:
Chúng
ta biết
lưỡng nghi chồng
lên nhau một
lần
thành tứ tượng,
chồng
lên một
lần
nữa là
bát quái. Chỉ có
8 quẻ với
24 hào thì không thể diễn
được nhiều
hiện
tượng, sự việc... nên
lại
phải
chồng
lên thêm một
lần
nữa.
Lần
này không lấy
1 vạch
âm haydương như lần thứ nhì,
mà lấy trọn một quẻ chồng lên tất
cả 8 quẻ. Chẳng
hạn,
lấy
quẻ Càn
chồng
lên Càn và 7
quẻ kia,
lấy
quẻ Ly
chồng
lên Ly và cả 7
quẻ kia.
Như vậy
mỗi
quẻ thành
ra 8 quẻ mới, tám
quẻ thành
64 quẻ mới.
Mỗi
quẻ mới
gồm
6 hào, cộng
là 64 x 6: 384 hào, tạm đủ để diễn
được khá nhiều
hiện
tượng, sự việc
rồi.
Sáu
mươi bốn
quẻ mới
này gọi
là trùng quái (quẻ trùng) để phân
biệt
với
tám quẻ nguyên thủy
gọi
là đơn quái (quẻ đơn).
Chu
Dịch
(Dịch
nhà Chu) hòan tòan xây dựng trên quan niệm
âm dương. Sáu mươi bốn quẻ chỉ do
hai vạch
âm và dương (đứt
và liền)
chồng
lên nhau, thay đổi
cho nhau mà
thành.
Nghĩa
hai chữ dương và âm
Theo
một
số nhà
ngữ nguyên
học
Trung Hoa thì mới
đầu
hai chữ dương,
âm có hình thức như
sau:
Chữ dương (陽) gồm hai phần: bên trái là sườn núi hoặc bức tường; bên phải, trên có mặt trời lên khỏi chân trời, dưới là những tia sáng mặt trời chiếu xuống.
Do đó, dương trỏ phía có ánh sáng,
phía sáng.
Chữ âm (陰) gồm hai phần: bên trái cũng là sườn núi, bên phải, trên có nóc nhà, dưới có đám mây. Do đó, âm trỏ phía mặt trời bị che khuất,không có ánh nắng, phía tối.
Phía có ánh nắng thì ấm áp, cây cối tươi tốt, phía không có ánh nắng thì lạnh lẽo, cây cối không phát triển. Do đó âm dương từ cái nghĩa tối/ sáng chuyển qua nghĩa lạnh/ nóng, đêm/ ngày, mùa đông/ mùa hè, mặt trăng/ mặt trời, chết/ sống, yếu/mạnh, giống cái/ giống đực, suy/thịnh, xấu/tốt, hư/thực, tiểu nhân/ quân tử, đóng/ mở, đục/ trong...
Trong âm có dương, trong dương có âm. Âm thịnh thì dương suy, dương thịnh thì âm suy.
Kinh Dịch tượng trưng âm dương bằng hai vạch: Vạch liền (dương): ___ và vạch đứt
(âm):
_ _ . Liền thì gọi là thực (đặc), đứt gọi là hư (rỗng).
Thái cực
Từ khi có quan niệm Thái cực, người Trung Hoa tượng trưng âm dương bằng hình đen và hình trắng, vì mới đầu, âm có nghĩa là phía không có ánh mặt trời, ở trong bóng tối, dương có nghĩa là phía có ánh mặt trời, sáng sủa.
Hình
2: Thái cực
Chúng ta nhận thấy vòng tròn Thái cực gồm hai hình âm dương đó, và hai hình này tuy
cách biệt hẳn nhau, đối lập nhau, mà lại ôm lấy nhau, xoắn lấy nhau.
Lại thêm chỗ hình đen phồng ra có một điểm trắng, chỗ hình trắng phồng ra có một điểm đen; chỗ hình đen phồng ra là chỗ hình trắng thót lại, ngược lại chỗ hình trắng phồng ra là chỗ hình đen thót lại. Như vậy để diễn cái ý : "âm thịnh lần thì dương suy lần, ngược lại dương thịnh lần thì âm cũng suy lần. Khi âm cực thịnh đã có một mầm dương (điểm trắng) xuất hiện rồi, khi dương cực thịnh đã có một mầm đen (điểm đen) xuất hiện rồi".
Vậy chẳng những âm dương xoắn lấy nhau mà trong âm còn có dương, trong dương còn có âm nữa!
Thành rồi hủy
Luật trong dương có âm, trong âm có dương có nghĩa
là hiện tượng nào cũng chứa sẵn mầm tự hủy của nó. Trong sự thịnh có mầm của sự suy, trong sự trị có mầm của sự loạn, trong sự sống có mầm của sự chết. Cho nên có người bảo một đứa trẻ sinh ra là bắt đầu tiến tới sự chết, mà chết là bắt đầu sống lại một cuộc sống khác, là tái sinh dưới hình thức này hay hình thức khác. Không thể có dương mà không có âm, có sống mà không có chết, có thịnh mà không có suy, có trị mà không có loạn. Phải có đủ cả hai thì mới thành một hiện tượng được, mới thành vũ trụ được, cũng như bất kỳ vật nào cũng có mặt phải và mặt trái, xã hội nào cũng có thiện và ác.
Mọi sự biến trong vũ trụ chỉ là một tiến trình thành rồi hủy, hủy rồi thành. Sự thành của dương là sự hủy của âm và ngược lại, sự thành của âm là sự hủy của dương.
Tóm lại âm dương tuy tính chất tương phản nhưng cũng tương ứng, tương cầu (tìm nhau), tương giao (gặp nhau) có tương giao
mới tương thôi (xô đẩy nhau), tương ma (cọ xát nhau), tương thể (thay thế, bổ túc nhau) để tương thành (giúp nhau tự hoàn thành: có cái này thì mới có cái kia, có cái
này thì cái kia mới làm tròn được nhiệm vụ của nó trong vũ trụ).
Quan trọng nhất là sự tương giao: giống đực giống cái, cả trời đất nữa (vì trời đất cũng chỉ là âm dương) có giao cảm với nhau rồi mới có vạn vật, vạn vật mới sinh nở biến hóa được.
- Âm dương đều động: Muốn giao nhau thì cả dương lẫn âm đều phải động.
- Rồi biến hóa: Âm dương có động thì mới giao nhau, mới biến mà sinh sinh hóa hóa
Chữ dịch ở đây là biến dịch, tức đạo biến hóa trongvũ trụ. Mọi sự biến hóa đều từ Càn Khôn mà ra; không còn Càn Khôn tức âm dương thì không còn sự biến hóa.
Mà nếu không có sự biến hóa, nghĩa là nếu âm dương không tác động lẫn nhau, không gặp nhau, thì “cô dương” không thể sinh, “độc âm” không thể thành; trong trường hợp đó âm dương sẽ bị tiêu diệt.
Tóm lại, Dịch cho rằng có số mạng, nhưng con người vẫn có thể sửa đổi số mạng được
phần nào!
(còn tiếp)
Nguyên Lạc
....................
Tham Khảo: Nguyễn Hiến Lê, Ngô Tất Tố, Wu Wei, Richard Wilhelm,
Kiều Xuân Dũng, Đông A Sáng, Internet, Facebook...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét