Tác
giả bài viết Nguyễn Thanh Ty
- Nó có súng! Nó có súng!
- Tôi là Triệu. Thiếu úy Triệu. Đại đội tôi mới được tăng cường tới Bảo Lộc sáng nay để bảo vệ an ninh quận.
- Dạ ! Ông thầy! Ông thầy sai gì tụi em!
Triệu nói:
- Hai anh về lấy chiếc Dodge tới đây để đưa mấy ông giáo về nhà cho an toàn!
Một anh nói:
- Khỏi cần hai người. Một mình em về lấy xe. Để thằng Xinh ở lại bảo vệ ông Thầy.
Chúng tôi lo ngại anh đi một mình nên đồng thanh:
- Anh coi chừng tụi nó trả thù.
- Tui có cái này, đố cha tụi nó dám!
- Ông lấy cái gì bảo vệ tôi?
Tôi vỗ vào bụng và nói:
- Cái này bảo vệ cho ông và cho tôi!
- Để coi mấy con lải trong bụng ông to cỡ nào mà bảo vệ được tôi?
- Được chưa?
- Ông lấy ra cho tôi coi nó là cái gì vậy?
- Ông đem dây điện theo dùng làm gì?
- Tôi chưa nghe thấy bao giờ. Ông có thể kể cho tôi nghe học ở đâu và biểu diễn vài đường cho tôi coi được không?
Nhảy đầm:
- Mấy cha tưởng dễ ăn hả! Hết bao nhiêu cơm gạo ở vũ trường rồi đó!
Rồi Sơn trấn an chúng tôi:
- Mà không sao! Mấy ông chỉ cần học một điệu Slow là đủ rồi. Điệu này rất dễ. Nhưng nhảy cho hay lại rất khó.
- Tôi hồi đó mới học nhảy nên cũng mê lắm. Nhưng học sinh làm gì có tiền. Thỉnh thoảng mới tới dancing, lần nào cũng gặp anh Tây già này. Anh Tây này cao lớn, có cái bụng phệ rất bự, dáng nặng nề nên không nhảy được các điệu khác, chỉ nhảy mỗi một điệu Slow. Anh ta ôm em nào cũng không hết vòng lưng vì bị cản bởi cái bụng. Anh ta cứ ôm riết em ca ve, đứng yên một chỗ. Hễ nghe tiếng bass đánh xình một cái, anh ta lắc nghiêng người một cái. Cứ thế cho đến cuối bản nhạc. Có điều đặc biệt đáng tức cười ở đây là mỗi lần đến đoạn nhạc du dương, đắc ý, anh ta thình lình buông em ra, bước lui một bước, tay phải nắm lại, đấm vào lòng bàn tay trái đánh bộp một tiếng, miệng khen bằng tiếng Việt "Hay...xì" rồi bước tới ôm em lắc lư như cũ.
Bida:
Nguyễn Văn Tâm, Nguyễn
Tiến Lãng,Nguyễn
Đức Hinh và Đỗ Danh Đạo.
Tâm mập có dáng xấu nhất vì cái bụng phệ phát triển
quá sớm ở cái tuổi hai mươi bốn. Anh phải đứng dạng chân chàng hảng để cho cái
bụng thấp xuống khỏi cấn thành bàn. Tay trái đặt trên mặt bàn, ngón tay trỏ
cong lại như cái móc câu để giữ đầu "cơ",
chứ không chịu hợp với ngón tay cái thành vòng tròn như mọi người.
Ngô Thanh Bạch to con, cao bằng Sơn, đứng phải rùn
chân xuống. Mỗi lần chuẩn bị thụt một quả, anh nhắm tới, nhắm lui, lưỡi thè ra
khỏi miệng, quẹo qua bên trái, hai hàm răng cắn chặt. Tôi cứ có cảm giác mỗi lần
anh thụt trái banh là mỗi lần đứt lưỡi. Nhất là những cú "đề trô" lại càng toát mồ hôi lạnh.
Nguyễn Đức Tín đặc biệt có khuôn mặt tròn, trắng trẻo
như cô Thúy Vân. Mỗi lần đi những đường cơ lắc léo, "ép phê còng tre", anh mắm môi, bặm miệng, hai con mắt ốc
nhồi mở ra hết cở. Trán anh nhướng lên thành bốn lằn xếp. Anh liếm môi vài cái
trước khi thụt một đường banh quyết tử. Trước khi thụt, mặt anh tái ngắt. Thụt
xong, mặt lại đỏ như gấc, trước khi trở lại bình thường.
Riêng Sơn, tôi thích ngắm nhìn cái dáng của anh nhất.
Người dong dõng, hai chân dài, anh đứng thẳng người, hai chân chụm lại, cúi xuống
mặt bàn tạo thành một hình thước ở thắc lưng. Anh đặt tay trái xuống mặt bàn,
hai ngón út và đeo nhẫn xòe ra hình rẽ quạt tựa xuống mặt nỉ, ngón giữa đỡ ngón
cái và ngón trỏ đan hợp nhau thành một vòng tròn, ôm khít khao đầu ngọn cơ. Trước
khi quyết định một đường banh, anh chăm chú nhìn ba trái bi, tay cầm cục "lơ" miết miết trên đầu "cơ". Khi anh bỏ cục "lơ" xuống thành bàn là đường "cơ" đã quyết định. Anh đánh
thong thả, nhẹ nhàng, xoay quanh bốn cạnh bàn một cách khoan thai, từ tốn,
không một chút phí sức. Tối thiểu một đường cơ của anh phải từ năm điểm trở
lên. Tuy nhiên, có bữa phe anh cũng thua tơi bời hoa lá. Anh không thể nào cứu
nổi bồ, khi Tâm mập chơi bết bát quá. Trong khi hai tay Bạch và Tín ngang sức,
ngang tài. Chúng tôi chơi giải trí không ăn tiền. Cá độ bằng những chầu cà phê,
bữa cơm trưa hoặc chầu bia tùy theo giờ giấc sáng, trưa, chiều và có lúc cả buổi
tối nữa.
Những ngày cuối tháng lãnh lương, càng đông, càng vui
nhộn. Chúng tôi có thêm Nguyễn Văn Chất, Võ Đôn Thao biệt danh "Sư phụ" từ cầu Đại Nga, giáp
ranh với Tuyên Đức về. Di Linh có Nguyễn Văn Hiện và Lâm Văn Rầm. Lại có thêm
lính mới tò te Đỗ Danh Đạo hổn danh Đạo Sữa. Ngoài ra còn có những bạn nhà
binh. Những sĩ quan trẻ tuổi trạc chúng tôi, nhưng "xếp bút nghiên theo việc đao cung" sớm. Đó là những anh
Vĩnh, Ngự, Tinh đều cùng cấp bậc Thiếu úy. Chỉ có anh Thành là Trung úy, Chi
khu phó, đã có vợ và một con. Còn toàn là đám độc thân vui tính. Ông trùm Lãng
không có tên trong bảng "phong thần"
vì năm giờ chiều là ông đã trùm mền, xoa dầu Nhị Thiên Đường rồi.
Xì
phé - Xập xám:
Mỗi thứ sáu đầu tháng, phòng chúng tôi trở thành sòng
bạc. Nhà hai anh Lãng và Đạo thành nhà chứa. Đám bạn từ các nơi về tụ lại nhà
tôi chơi bạc xong, kéo về nhà Lãng, Đạo ngủ. Đánh bạc thì tôi mù tịt. Tôi không
có khiếu về môn này. Sau, cố học lắm, mới biết chơi tứ sắc. Nhưng lên rác, xuống
rác, trôi rác, khui, quằn, đếm lệnh chẵn, lẻ, tới trơn, tới quan thì rắc rối
quá. Tôi chỉ thích đánh "bấc"
của người Bắc. Môn này vui và hấp dẫn hơn bài cào. Nó hay ở chỗ là bài cùng điểm
mà lại ăn nhau ở hàng thập, hàng vạn, hàng văn, hàng sách. Nhưng đám nhà nghề
như Sơn, Hiện, Rầm, Bạch, Thao, Tín... đều chê. Đó là dành cho dân nhà quê. Còn
dân chơi thì chỉ xập xám hoặc xì phé mới đúng điệu. Sau khi lãnh lương, buổi
sáng, ăn nhậu, bi da, cà phê đã đời, anh nào không có máu đen đỏ thì về nhà
Lãng ngủ. Phần còn lại về phòng chúng tôi gầy sòng. Sơn một tay chấp hết. Anh
trụ từ đầu hôm cho đến sáng, người vẫn khỏe. Nói theo kiểu Kim Dung, sắc mặt
không thay đổi, hơi thở vẫn điều hòa. Nghĩa là có những anh, nửa đêm mệt quá phải
ngã lưng, khò một chút. Anh khác thay tay. Sơn vẫn ngồi một chỗ, thuốc lá liên
tục; cà phê hết ly này đến ly khác; không đi tiểu, mới lạ. Cứ trung bình mười
ván là Sơn vơ làng hết bảy, tám.
Thua quá, những lần sau, Tín cạch. Tín chấp hai tay
làm bộ xá xá:
- Ông Sơn ơi là ông Sơn ơi! Tiền lương em đây! Ông cứ lấy mà xài. Đừng "rê" em vào sòng nữa. Bàn tay ông có ma, ghê thấy mẹ. Em sợ lắm!
Nói xong, Tín cười hềnh hệch, đổi giọng:
- Bố bảo em cũng chả dám chơi với ông! Ghê thấy mẹ!
Có lần tôi hỏi Sơn:
- Này, ông học nghề ở đâu vậy. Có chơi lận không?
Sơn nói cho tôi biết bí quyết đánh bạc:
- Chẳng có gian lận gì hết! Chẳng qua mấy cha ấy cứ đưa bài cho tôi coi, tôi mới thắng được dễ dàng mà thôi.
Tôi không tin, vặn lại:
- Ông lại xạo rồi! Có ai đánh bài mà lại đưa bài mình cho người khác coi bao giờ?
Sơn thích thú giảng nghĩa:
- Tôi nói đưa bài có nghĩa là họ đưa cái mặt họ cho tôi biết. Nước bài của họ hiện lên nét mặt hết. Tại ông không ở trong nghề nên không biết, không chú ý theo dõi. Ông chỉ nhìn xuống chiếu, ngó quân bài thôi. Phải không nào?
Tôi phải công nhận Sơn nói đúng. Tôi chỉ nhìn những
cây bài đánh xuống hoặc những chi bài binh xong xòe ra mà thôi. Sơn nói tiếp:
- Những tay cao thủ đánh bạc họ rất trầm tính. Không bao giờ để lộ cảm xúc trên nét mặt cho đối thủ biết. Ngược lại, đôi mắt họ rất sắc. Họ kín đáo quan sát đối phương để đoán từng nước bài mà tùy cơ ứng phó. Trong khi đó, ông ngẫm lại coi! Mất tay Thao, Tín, Hiện, Rầm, hễ bài tốt thì cười nói rầm rĩ. Bài xấu thì xịu mặt xuống, chửi thề ỏm tỏi thì làm sao mà tôi không biết.
Tôi phải phục lăn kinh nghiệm của Sơn. Một chân lý
không cãi vào đâu được. Dẫu bên này hay bên kia chân núi Pyrhéné.
Tuy nhiên hay không bằng hên. Sự đời có những cái trớ trêu, tréo cẳng ngỗng, không ai có thể ngờ hết được. Sơn đã đại bại trước Phạm Quang Chữ, một tay mơ mới tập chơi. Anh Chữ, chân chỉ hạt bột, ngoài giờ dạy học là về phụ với vợ trong việc mua bán. Vợ anh có gian hàng bán quần áo trong chợ. Chị vợ ngồi thu tiền. Anh chạy vòng ngoài, gom hàng, giao hàng, tất bật suốt ngày. Anh ít giao thiệp với bạn đồng nghiệp vì mặc cảm với căn bệnh nan y của anh: bệnh cùi. Chỉ là đồn đoán thôi. Anh vẫn béo tốt, da dẻ hồng hào. Duy chỉ có hai bàn tay là hơi lạ. Bắp thịt hổ khẩu giữa ngón tay cái và ngón trỏ mất hẳn. Những ngón khác co rút lại, cầm đồ vật rất khó khăn. Người ta đồn anh nhờ uống vàng hàng tháng nên mới cầm giữ được không cho bệnh phát ra ngoài.
Trước khi bọn trẻ chúng tôi được bổ nhiệm tới, Ty Tiểu
Học Lâm Đồng ở trong tình trạng buồn tẻ. Chúng tôi đã đem lại một nguồn sinh lực
mới cho Ty. Với phương pháp giáo dục mới và tinh thần trẻ trung đã thay đổi hẳn
cái không khí đều đều, buồn tẻ bao nhiêu năm nay ở cái xứ cao nguyên này. Phạm
Quang Chữ là người đầu tiên bứt ra khỏi cái ao tù nước đọng đó. Về sau, còn có
thêm nhiều người nữa tham gia vào cái không khí vui nhộn, cởi mở, phóng khoáng
của chúng tôi. Trong đó có cả cụ Trạch, hiệu trưởng trường Nam Bảo Lộc, sắp hồi
hưu. Ông Lợi Ty trưởng, rất văn nghệ, chịu chơi. Nhiều lần xắn tay áo cùng đám
trẻ "hạ cờ tây", vừa nhậu,
vừa đánh bạc.
Trở lại chuyện Phạm Quang Chữ đại thắng Trịnh Công
Sơn.
Bài của Chữ đỏ từ đầu đến cuối. Hai tay cầm bài lòng khòng, lèo khoèo, rớt lên, rớt xuống, binh tầm bậy, tầm bạ mà vẫn cứ thắng. Chuyển sang tứ sắc. Mới đánh vài cây anh đã "tới" mà lại tới quan, khui, quằn tùm lum. Đêm đó anh hốt trọn. Anh nào cũng nhẵn túi. Nguyễn Đức Tín nổi khùng, chửi thề:
- Địt mẹ! Đúng là thánh nhân đãi kẻ khù khờ. Mèo mù vớ cá rán. Ông bà ta bạc tóc mới nói ra được điều gì thì trúng phóc điều đó, không sai một ly ông cụ.
Quay sang Sơn, Tín thọc cù léc:
- Chỉ có bàn tay ông cùi mới trị được ông bàn tay ma!
Nói xong, Tín cười hắc hắc một thôi. Quả thật, đêm đó, Trịnh Công Sơn không còn một xu dính túi.
Cái
khoản kia...
"...
Em Pleiku má đỏ môi hồng...Ở đây mùa đông...đi dăm phút đã về chốn cũ."
Cái ông nhà thơ nào đó đã tả cái xứ cao nguyên rất đúng. Thật vậy! Cái phố quận
Bảo Lộc gom lại bằng bàn tay ở một đoạn phố ngắn. Hầu hết cư dân đều sống biệt
lập trong các xứ đạo hoặc trong những "phẹt".
Danh từ "phẹt" lần đầu nghe
lạ tai và buồn cười. Tôi cứ có ý nghĩ thô tục khi thấy những chiếc xe Lam chở
khách, hai bên hông kẻ hàng chữ chỉ tuyến đường "Bờ Lao-Phẹt." Mãi về sau, có dịp đến phẹt mới biết đó là
"Ferme", trang trại của người
Pháp có đồn điền trà và cà phê tại đây. Mấy ông trong xứ Tân Thanh, Tân Phát
phiên âm thành tiếng Việt là Phẹt.
Cái phố quận quá nhỏ, đến nỗi có người ví von, con chó
cũng nằm không đủ chỗ phải ló cái đuôi ra bên ngoài. Cho nên mấy ông giáo đi
đâu cũng đụng học trò của mình. Học trò ở đây đi học rất trễ. Có đứa cao tồng
ngồng bằng thầy. Do đó, muốn giữ cái vỏ mô phạm luôn luôn sáng như trăng rằm để
làm gương soi cho học trò, chúng tôi, mỗi tháng phải kéo nhau lên tận Đà Lạt,
thác Gu gha, để du hí. Ở đây, ngoài phong cảnh thơ mộng, hữu tình, còn có những
em Thái trắng, Thái đỏ chuyên phục vụ cái khoản... thứ ba. Nghe nói các em có
nhiều kiểu lạ hơn người Kinh. Cả bọn chúng tôi về cái khoản... đó, đều "thường thường bậc trung". Chỉ
có Võ Đôn Thao là được võ lâm tôn lên hàng Sư phụ. Đã không mất tiền cho em mà
còn được em bao ngược. Tha hồ cơm no, bò cưỡi.
Ngón nghề này, anh nào cũng theo xin bí kíp. Võ Đôn
Thao ngoài khả năng "Yêu em thật
sâu...Yêu em dài lâu...", anh còn có tài "xúc cốt" đánh lừa Hội Đồng Y Khoa để được miễn dịch vĩnh
viễn. Xúc cốt, theo Kim Dung, ông tổ nói phét trong truyện chưởng thì đó là môn
võ công luyện được phép làm cho thân mình biến dạng, hoặc nhỏ lại, xương cốt co
lại như đứa trẻ. Ở đây, Thao chỉ cần bẻ quặt chân phải mình qua một bên, đi lặt
lìa, hệt như người què. Anh biểu diễn cho chúng tôi coi. Lại được một phen cười
vỡ bụng. Nhờ vậy anh khỏi đi lính. Nhưng đây chỉ là chuyện nhỏ. Quan trọng là
bí kíp "Nhất dương chỉ"
chúng tôi ai cũng muốn theo thọ giáo. Đứng đầu là Trịnh Công Sơn. Công lực của
anh rất kém. Theo Thao, đây là cơ duyên, trời cho ai nấy hưởng, không phải ai
muốn luyện cũng được.
Anh kể lại cái cơ duyên của mình:
- Lúc tôi mới mười hai tuổi, học lớp Nhất ở Tuy Hòa, Phú Yên, bỗng dưng mắc một chứng bệnh kỳ lạ. Người cứ xanh mướt, ngày càng gầy ốm. Cha mẹ tôi hết lòng chạy chữa đủ thứ thuốc vẫn không thuyên giảm. Sau có ông thầy Tàu thuốc Bắc bắt mạch, chẩn bệnh quả quyết rằng tôi mắt bệnh hượt tinh. Thầy giảng giải cho cha tôi rõ về căn bệnh này là tuổi thanh niên thường vướng phải ba thứ tinh. Thông thường là mộng tinh. Trai đang sung sức, ban ngày thấy gái đẹp, đêm mơ tưởng giao hợp mà xuất tinh. Ví như bình đầy mà tràn. Không có hại. Cưới vợ là hết. Thứ hai, không nằm mơ mà vẫn xuất tinh, ấy là di tinh, giống như cái bình nghiêng, nước đổ. Cũng không hại lắm. Phương thuốc hiệu nghiệm để chữa là cưới vợ. Còn cái này, ông thầy Tàu chỉ tôi, gọi là hượt tinh, tức giống như cái bình lũng đít, chảy ngày, chảy đêm cho đến chết. Bệnh này gây ra do thần kinh quá yếu hoặc chơi bời quá độ mà thành.
Cha tôi nghe tới đó, trợn mắt:
- Thầy nói sao? Thằng con tôi mới mười hai tuổi mà thầy nói nó chơi bời quá độ?
Ông thầy Tàu biết mình bị hớ, nói chữa:
- A! Cái này tôi nói theo sách vở mà! Nhưng ông đừng có lo. Tôi cho mấy hộp "Tam tinh Hải cẩu bổ thận hoàn", cháu nó uống một tháng là hết bệnh.
Cả chục hộp, viên nào cũng to như ngón cẳng cái, tôi cố
trợn trạo nuốt. Thuốc hết mà bệnh cứ y như cũ. Nghĩa là mỗi lần có chuyện gì
xúc động bất ngờ hoặc hồi hộp, lo âu thì đũng quần tôi ướt đẫm. Ví dụ làm bài
thi, gần hết giờ, bài vẫn chưa xong thì bị. Thình lình ai vỗ vai hù một tiếng
cũng bị. Tiếp tục uống Tam Tinh Hải cẩu cả năm, người tôi cứ rạc dần, đi đứng hết
nổi. Cha tôi phải mang tôi vào nhà thương Grall, Sài Gòn xin chữa. Ở đó bác sĩ
Tây, họ tiêm vào đầu tôi cây kim dài cả gang tay để chữa. Tôi nằm ở đó gần sáu
tháng thì bệnh dứt hẳn. Cha tôi tốn rất nhiều tiền nhưng cứu được thằng quí tử
ông rất mừng. Đến năm mười tám tuổi, đi chơi gái lần đầu, tôi tình cờ phát hiện
ra mình có khả năng kỳ diệu đó. Tôi có thể kiểm soát và điều khiển thằng "em tôi" theo ý muốn. Muốn tấn,
thối, hoãn binh hoặc trường kỳ kháng chiến bao lâu cũng được. Bởi vậy, anh em
trong võ lâm mới bái tôi là Sư phụ.
Nghe xong, chúng tôi đều thất vọng. Ngàn năm mới có cơ
duyên một lần. Đâu đã đến phiên mình!
Mỗi lần lên Gu Gha, chúng tôi kêu bia uống vài chai
cho nóng máy, thong thả ngắm các em Thái lượn qua, lượn lại để chọn thì Sơn lúc
nào cũng tình nguyện làm người lính xung kích đầu tiên. Đánh nhanh, rút nhanh.
Đó là phương pháp chiến đấu của Sơn. Có lần chúng tôi chưa uống hết chai bia,
Sơn đã tàn cuộc chiến, mặt mũi bơ phờ, trở về hậu cứ.
- Thật phí đồng tiền, bát gạo! Tín phê bình.
Đến lượt Thao trổ tài. Quả thật lời đồn không sai.
Chúng tôi cà kê đến chai thứ tư thì Thao đang hùng dũng trên đường chiến thắng
trở về mang theo một tù binh: Một em Thái trắng (đồ mạo hóa) cũng Xà rông, cũng
vòng cườm đeo tứ tung, nhưng chỉ nói được ba tiếng "bắt cái nước". Đó là tiếng Thượng, có nghĩa "ấy em". Còn thì nói rặc tiếng
Việt. Hóa ra, em từ sông Mao, Phan Thiết lên đổi vùng. Bà chủ bắt mạch biết
khách yêu hoa hay ham của lạ, đặc sản, nên treo đầu dê, bán thịt chó. Bà bắt mấy
em thay đổi xiêm y, đeo vòng, giả làm sơn nữ Phà Ca câu khách.
Dần dà, thời gian sau, Sơn không tháp tùng với chúng
tôi nữa. Cố "nài hoa, ép liễu"
đến mấy, Sơn cũng tìm cớ thối thác. Khi thì lý do này, khi thì lý do nọ. Ngô
Thanh Bạch phán một câu chắc nịch:
- Bây giờ ông Sơn có chị Năm rồi. Ổng đang hợp tác với hãng súc ve chai !
Tập vẽ :
Đến bây giờ, tôi mới biết Sơn còn kiêm thêm tài hội họa
và đã nhiều lần cùng các ông Đinh Cường, Trịnh Cung đem tranh đi triển lãm khắp
nơi. Lúc bấy giờ, Sơn chỉ ngồi hí hoáy vẽ theo mấy cái hình thiếu nữ mặt nhọn,
một mắt. Người ốm tong, dài thoòng. Hai bàn tay thường kẹp giữa đùi. Hình nào
cũng mờ mờ, không rõ nét. Sơn vẽ theo những hình bìa của Đinh Cường. Tôi không
có óc thẩm mỹ và "i tờ rít"
về hội họa nên thường phá đám Sơn trong lúc vẽ:
- Ông Sơn nè! Ví dụ như người con gái ông vẽ lâu nay, thình lình hiện ra như trong chuyện Bích Câu kỳ ngộ, thì ông có lấy làm vợ không?
Sơn đang chăm chú gôm đi vẽ lại, nghe tôi hỏi thế, ngẫn
ra mấy giây mới đáp:
- Sao ông lại thô tục thế! Người đẹp trong tranh phải có cái khác người thật ngoài đời chứ. Nếu cứ phải cho giống thì chụp hình là dễ nhất. Mà đã thế thì còn đâu là nghệ thuật.
Tôi làm như hiểu ra thế nào là nghệ thuật bèn à lên một
tiếng:
- Vậy nghệ thuật, nhất là về hội họa là phải vẽ làm sao cho khác với sự thật, lạ hơn sự thật, càng quái dị càng hay, đến lúc người xem không thể nào hiểu được bức tranh ông họa sĩ vẽ cái gì, thì lúc đó ông họa sĩ mới thực có tài và nổi tiếng?
Nghe tôi dài dòng cái sự "mới hiểu ra" nghệ thuật, Sơn gật gù:
- Gần gần như vậy.
- Thế thì tôi cũng sẽ nổi tiếng! Tôi sẽ vẽ tranh trừu tượng! Tôi hớn hở khoe.
Sơn trợn mắt nhìn tôi:
- Thiệt không cha? Cha mà cũng biết vẽ tranh trừu tượng? Vẽ thử tôi coi!
Tôi cười thầm trong bụng, vì Sơn bị tôi gạt:
- Dễ thôi! Tôi sẽ treo một khung tranh trống không. Nếu có ai hỏi, tôi sẽ nói: Đó là bức tranh tôi vẽ đàn bò đang ăn cỏ theo phái trừu tượng. Nếu còn thắc mắc: Đàn bò đâu? Tôi sẽ nói: Đàn bò ăn hết cỏ rồi, nó đi chỗ khác, chớ còn đứng đó làm chi!
Đến đây, Sơn chợt hiểu, cười phá lên, hỏi tôi:
- Ông đào ở đâu ra những chuyện tiếu như vậy?
- Thiếu khối gì! Cứ hỏi ông Đặng Trần Huân khắc biết.
Sơn không biết ông Huân là ai !
- Ông Sơn ơi là ông Sơn ơi! Tiền lương em đây! Ông cứ lấy mà xài. Đừng "rê" em vào sòng nữa. Bàn tay ông có ma, ghê thấy mẹ. Em sợ lắm!
- Bố bảo em cũng chả dám chơi với ông! Ghê thấy mẹ!
- Này, ông học nghề ở đâu vậy. Có chơi lận không?
Sơn nói cho tôi biết bí quyết đánh bạc:
- Chẳng có gian lận gì hết! Chẳng qua mấy cha ấy cứ đưa bài cho tôi coi, tôi mới thắng được dễ dàng mà thôi.
Tôi không tin, vặn lại:
- Ông lại xạo rồi! Có ai đánh bài mà lại đưa bài mình cho người khác coi bao giờ?
Sơn thích thú giảng nghĩa:
- Tôi nói đưa bài có nghĩa là họ đưa cái mặt họ cho tôi biết. Nước bài của họ hiện lên nét mặt hết. Tại ông không ở trong nghề nên không biết, không chú ý theo dõi. Ông chỉ nhìn xuống chiếu, ngó quân bài thôi. Phải không nào?
- Những tay cao thủ đánh bạc họ rất trầm tính. Không bao giờ để lộ cảm xúc trên nét mặt cho đối thủ biết. Ngược lại, đôi mắt họ rất sắc. Họ kín đáo quan sát đối phương để đoán từng nước bài mà tùy cơ ứng phó. Trong khi đó, ông ngẫm lại coi! Mất tay Thao, Tín, Hiện, Rầm, hễ bài tốt thì cười nói rầm rĩ. Bài xấu thì xịu mặt xuống, chửi thề ỏm tỏi thì làm sao mà tôi không biết.
Tuy nhiên hay không bằng hên. Sự đời có những cái trớ trêu, tréo cẳng ngỗng, không ai có thể ngờ hết được. Sơn đã đại bại trước Phạm Quang Chữ, một tay mơ mới tập chơi. Anh Chữ, chân chỉ hạt bột, ngoài giờ dạy học là về phụ với vợ trong việc mua bán. Vợ anh có gian hàng bán quần áo trong chợ. Chị vợ ngồi thu tiền. Anh chạy vòng ngoài, gom hàng, giao hàng, tất bật suốt ngày. Anh ít giao thiệp với bạn đồng nghiệp vì mặc cảm với căn bệnh nan y của anh: bệnh cùi. Chỉ là đồn đoán thôi. Anh vẫn béo tốt, da dẻ hồng hào. Duy chỉ có hai bàn tay là hơi lạ. Bắp thịt hổ khẩu giữa ngón tay cái và ngón trỏ mất hẳn. Những ngón khác co rút lại, cầm đồ vật rất khó khăn. Người ta đồn anh nhờ uống vàng hàng tháng nên mới cầm giữ được không cho bệnh phát ra ngoài.
Bài của Chữ đỏ từ đầu đến cuối. Hai tay cầm bài lòng khòng, lèo khoèo, rớt lên, rớt xuống, binh tầm bậy, tầm bạ mà vẫn cứ thắng. Chuyển sang tứ sắc. Mới đánh vài cây anh đã "tới" mà lại tới quan, khui, quằn tùm lum. Đêm đó anh hốt trọn. Anh nào cũng nhẵn túi. Nguyễn Đức Tín nổi khùng, chửi thề:
- Địt mẹ! Đúng là thánh nhân đãi kẻ khù khờ. Mèo mù vớ cá rán. Ông bà ta bạc tóc mới nói ra được điều gì thì trúng phóc điều đó, không sai một ly ông cụ.
- Chỉ có bàn tay ông cùi mới trị được ông bàn tay ma!
Nói xong, Tín cười hắc hắc một thôi. Quả thật, đêm đó, Trịnh Công Sơn không còn một xu dính túi.
- Lúc tôi mới mười hai tuổi, học lớp Nhất ở Tuy Hòa, Phú Yên, bỗng dưng mắc một chứng bệnh kỳ lạ. Người cứ xanh mướt, ngày càng gầy ốm. Cha mẹ tôi hết lòng chạy chữa đủ thứ thuốc vẫn không thuyên giảm. Sau có ông thầy Tàu thuốc Bắc bắt mạch, chẩn bệnh quả quyết rằng tôi mắt bệnh hượt tinh. Thầy giảng giải cho cha tôi rõ về căn bệnh này là tuổi thanh niên thường vướng phải ba thứ tinh. Thông thường là mộng tinh. Trai đang sung sức, ban ngày thấy gái đẹp, đêm mơ tưởng giao hợp mà xuất tinh. Ví như bình đầy mà tràn. Không có hại. Cưới vợ là hết. Thứ hai, không nằm mơ mà vẫn xuất tinh, ấy là di tinh, giống như cái bình nghiêng, nước đổ. Cũng không hại lắm. Phương thuốc hiệu nghiệm để chữa là cưới vợ. Còn cái này, ông thầy Tàu chỉ tôi, gọi là hượt tinh, tức giống như cái bình lũng đít, chảy ngày, chảy đêm cho đến chết. Bệnh này gây ra do thần kinh quá yếu hoặc chơi bời quá độ mà thành.
- Thầy nói sao? Thằng con tôi mới mười hai tuổi mà thầy nói nó chơi bời quá độ?
Ông thầy Tàu biết mình bị hớ, nói chữa:
- A! Cái này tôi nói theo sách vở mà! Nhưng ông đừng có lo. Tôi cho mấy hộp "Tam tinh Hải cẩu bổ thận hoàn", cháu nó uống một tháng là hết bệnh.
- Thật phí đồng tiền, bát gạo! Tín phê bình.
- Bây giờ ông Sơn có chị Năm rồi. Ổng đang hợp tác với hãng súc ve chai !
Tập vẽ :
- Ông Sơn nè! Ví dụ như người con gái ông vẽ lâu nay, thình lình hiện ra như trong chuyện Bích Câu kỳ ngộ, thì ông có lấy làm vợ không?
- Sao ông lại thô tục thế! Người đẹp trong tranh phải có cái khác người thật ngoài đời chứ. Nếu cứ phải cho giống thì chụp hình là dễ nhất. Mà đã thế thì còn đâu là nghệ thuật.
- Vậy nghệ thuật, nhất là về hội họa là phải vẽ làm sao cho khác với sự thật, lạ hơn sự thật, càng quái dị càng hay, đến lúc người xem không thể nào hiểu được bức tranh ông họa sĩ vẽ cái gì, thì lúc đó ông họa sĩ mới thực có tài và nổi tiếng?
- Gần gần như vậy.
- Thế thì tôi cũng sẽ nổi tiếng! Tôi sẽ vẽ tranh trừu tượng! Tôi hớn hở khoe.
Sơn trợn mắt nhìn tôi:
- Thiệt không cha? Cha mà cũng biết vẽ tranh trừu tượng? Vẽ thử tôi coi!
Tôi cười thầm trong bụng, vì Sơn bị tôi gạt:
- Dễ thôi! Tôi sẽ treo một khung tranh trống không. Nếu có ai hỏi, tôi sẽ nói: Đó là bức tranh tôi vẽ đàn bò đang ăn cỏ theo phái trừu tượng. Nếu còn thắc mắc: Đàn bò đâu? Tôi sẽ nói: Đàn bò ăn hết cỏ rồi, nó đi chỗ khác, chớ còn đứng đó làm chi!
- Ông đào ở đâu ra những chuyện tiếu như vậy?
- Thiếu khối gì! Cứ hỏi ông Đặng Trần Huân khắc biết.
Nguyễn Thanh Ty
http://www.ninh-hoa.com/NguyenThanhTy-VeMotQuangDoiTCS-06U.htm
2 nhận xét:
Cám ơn tác giả NGUYỄN THANH TY! Những mẩu chuyện chân thực, hấp dẫn!
Rất vui khi bác Vũ Nho Thanh Bình ghé thăm và ghi cảm nhận.
Đăng nhận xét