BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Bảy, 2 tháng 7, 2022

LƯƠNG CHÂU TỪ CỦA VƯƠNG HÀN – Đỗ Chiêu Đức



CHIẾN TRANH là thảm họa muôn thuở từ xưa đến nay, từ Đông sang Tây, từ Âu sang Á... Có biết bao nhiêu người đã nằm xuống ở sa trường. Sinh ly tử biệt, có mấy ai được lành lặn trở về từ chiến địa đâu ?!... Mời đọc LƯƠNG CHÂU TỪ của Vương Hàn đời Đường để thấm thía hơn với nỗi niềm "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi ?!"...
  
                     LƯƠNG CHÂU TỪ            
   王                                    Vương Hàn
 
葡萄美酒夜光杯,    Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi,
欲飲琵琶馬上催。    Dục ẩm tì bà mã thượng thôi.
醉臥沙場君莫笑,    Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu,
古來征戰幾人回。    Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi?
 


VƯƠNG HÀN: 
Không rõ năm sanh năm mất. Tự là Tử Vũ. Người đất Tinh Châu Tấn Dương (thuộc Thành phố Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây hiện nay). Lúc trẻ nhà giàu nên sống rất hào sảng phóng túng, thích uống rượu và ngao du sơn thủy. Đậu Tiến Sĩ đời Đường Tuấn Tông Cảnh Vân Nguyên niên (719). Khi Trương Duyệt làm Tể Tướng có triệu ông về kinh làm quan, đến khi Trương Duyệt bị bãi chức, ông cũng bị biếm ra khỏi kinh thành. Cuối cùng ông nhậm chức Tư Mã Thông Châu và mất ở nơi đây. Ông sở trường về thơ Thất ngôn tứ tuyệt, thiên về biên tái, lời thơ rất hùng tráng, hoa lệ và cảm khái, bi phẫn với cảnh chiến tranh dai dẳng.
 

           

CHÚ THÍCH:
   
1. LƯƠNG CHÂU: là đất Lũng Tây đời Đường, nay thuộc TP Võ Uy tỉnh Cam Túc. Đây là vùng đất giáp ranh, do người Hán và người Hồ luân phiên cát cứ, ai mạnh thì chiếm giữ.
      
LƯƠNG CHÂU TỪ: không phải là tựa chính thức của bài thơ, mà là tên của một Khúc Hát ở vùng đất Lương Châu, vì ngoài bài nầy ra, ta còn có Lương Châu Từ của thi sĩ Vương Chi Hoán cũng thuộc đời Đường. Nên bài nầy còn có tựa là XUẤT TÁI 出塞 : có nghĩa là XUẤT CHINH RA NGOÀI BIÊN TÁI.

2. BỒ ĐÀO: là Trái Nho, nên BỒ ĐÀO MỸ TỬU là Rượu ngon được ủ bằng nho. NHO là trái của người Hồ, nên rượu Nho cũng là rượu của người Hồ cống nhập vào Trung Hoa. Bây giờ ta gọi là rượu VANG (Le Vin).   

3. DẠ QUANG BÔI : là Ly uống rượu mà ban đêm phát ra ánh sáng. Ly làm bằng ngọc Dạ quang . "Có thể" là ly bằng Pha-Lê cũng do người Hồ cống vào Trung Hoa.     
Trung Hoa xưa gọi những dân tộc ở phương bắc là Bắc Mông, phương Tây là Rợ Hồ, phương Nam là Nam Man. Gọi chung các nước của các dân tộc đó là PHIÊN BANG.   

4. TỲ BÀ: là loại đàn có 4 dây, cũng từ đất Hồ cống nhập, nên còn gọi là Hồ Cầm, loại đàn mà cô Kiều đàn rất giỏi:
               
Nghề riêng ăn đứt HỒ CẦM một chương!
   
5. QUÂN : là Nhân Vật Đại Từ, ngôi thứ 2 số ít, nên có nghĩa: Ông, Anh, Bà, Chị, Em, Mầy... Trong câu thơ nầy, xưa nay thường được mọi người hiểu và dịch là ANH hay BẠN. Sao không thể là NÀNG được chứ ?! Tại sao ?. Xin thưa:
    
Hai câu đầu nêu lên : Rượu Bồ Đào (rượu Nho), ly dạ quang (ly pha-lê), đàn Tì Bà, tất cả đều của Xứ Hồ : Hồ tửu, Hồ bôi, Hồ Cầm, thì sao không thể là HỒ CƠ chớ ?! (HỒ CƠ : là Người đẹp xứ Hồ). Những người đẹp nầy giỏi đàn hát, giúp vui trong quân ngũ để khích lệ tinh thần ba quân tướng sĩ hăng hái giết giặc. Ta thấy thúc quân không phải là tiếng chiêng tiếng trống, mà là tiếng đàn TÌ BÀ, Có lạ không ? Và chắc chắn là tiếng đàn thúc quân phải do những Hồ Cơ nầy ngồi trên mình ngựa  đãm nhiệm. Cho nên, trước khi phi ngựa ra chiến trường, người chiến sĩ đã nói vói lại với người đẹp Hồ Cơ rằng: "Túy ngọa sa trường QUÂN mạc tiếu !" (ta lỡ có say mà nằm gục giữa chiến trường thì NÀNG cũng đừng có cười nhạo ta nhé !. Vì: "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi ?!" Xưa nay, có mấy ai được trở về từ chiến trường đâu nàng ơi !!!
         
 
DỊCH NGHĨA:
      
Rượu Bồ Đào rót vào chén dạ quang (Rượu vang ngon rót vào chén ngọc đẹp). Toan uống, thì đã nghe tiếng Tì Bà thúc quân vội vả lên ngựa. (Nhưng khoan, hãy đợi ta uống cạn vài ly đã) Vì có say nằm gục giữa chiến trường thì NÀNG cũng đừng có cười nhạo ta nhé ! Vì hãy nghĩ xem, từ xưa đến nay đem thân đi chinh chiến đã có mấy ai được trở về đâu ?!
        
Đây là cái khí phách ngang tàng của...
                
Những người chinh chiến bấy lâu,                 
Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây.                                    
                 (Chinh Phụ Ngâm Khúc)
 



 
DIỄN NÔM:
            
BÀI HÁT LƯƠNG CHÂU
         
Rượu vang rót vội chén pha-lê,         
Giục giã tì bà giọng tỉ tê.        
Say khướt sa trường nàng chớ nhạo,         
Xưa nay chinh chiến mấy ai về ?!
 

Lục bát:
         
Bồ đào rót chén dạ quang,        
Tì bà giục giã sa tràng tiến ngay.         
Chớ cười chiến địa ta say,       
Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về ?!                                          
                               Đỗ Chiêu Đức.
 
PHỤ CHÚ:
     
Người Hoa gọi tất cả các loại đá quí là BẢO THẠCH 寶石, mà cũng gọi là NGỌC nữa.
Ví dụ: CẨM THẠCH 錦石 mà ta làm đồ trang sức để đeo, thì người Hoa không có gọi là đeo CẨM THẠCH 戴錦石, mà gọi là ĐỚI NGỌC 戴玉 là Đeo NGỌC. 
Nên PHA LÊ trong thiên nhiên ngày xưa rất hiếm, có được một khối Pha Lê để làm ly uống rượu không phải là dễ. Pha Lê lại lóng lánh trong ánh đèn đêm, nên ta có thể "nghĩ" DẠ QUANG BÔI ở đây là LY PHA LÊ được nói nhấn cho có vẻ cao quí và trịnh trọng !. Mặc dù theo truyền thuyết cho rằng NGỌC DẠ QUANG là Ngọc tự nó có thể phát sáng trong đêm, chớ không phải như Pha Lê phải nhờ ánh sáng mới lấp lánh được. Nhưng trong Văn Chương ai biết được...!!!
 
                                                                                     杜紹德
                                                                                Đỗ Chiêu Đức

2 nhận xét:

Lac Nguyen nói...

Theo Nguyễn Dư:
- Người Ai Cập biết làm rượu nho sớm nhất, khoảng 4500 năm trước Công nguyên. Họ truyền dạy cho các nước chư hầu, dân nô lệ xung quanh. Sau đế quốc Ai Cập, đế quốc La Mã tiếp tục khuếch trương nghề trồng nho, làm rượu ra khắp châu Âu.
Thế kỉ 16, các nước phương Tây nằm bên bờ biển Đại Tây Dương như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan v.v. thi nhau dùng tàu thuyền đi tìm thị trường buôn bán. Họ đến được Ấn Độ, Trung quốc...
- Ngày xưa, đế quốc La Mã đã sớm nhận ra được vị trí quan trọng của một vùng đất có cửa sông đổ ra biển Đại Tây Dương. Rất thuận tiện cho tàu bè qua lại. Tại đây, năm 138, người La Mã khởi công xây dựng thành phố Portus Calle, buôn bán sầm uất.
Tên Portus Calle về sau được dùng để đặt tên nước Portugal. Portus trở thành thủ đô Porto.
Thành phố Porto và các vùng phụ cận, từ xưa đến nay,nổi tiếng nhờ... làm rượu nho.
- Thế kỉ 16, rượu làm tại Porto, đã được lái buôn người Bồ Đào Nha mang vào nước Tàu, đã được các nhà truyền giáo dùng trong các buổi lễ của nhà thờ.
Người Trung quốc có thể mua rượu nho ngoài phố. Giáo dân biết rượu nho qua bài giảng Kinh Thánh. Nhiều người được thấy rượu nho trong nhà thờ.
Người Trung quốc gọi rượu nho là rượu Porto hay rượu của Portugal.
Porto, Portugal được ghi âm và được đọc theo âm Hán Việt là Bồ đào, Bồ Đào Nha.
Hai cặp Bồ Đào, tên rượu nho và tên nước, viết giống nhau vì cùng từ một gốc (porto, portu) mà ra. Không phải ngẫu nhiên mà Bồ đào (rượu nho, quả nho) viết giống Bồ Đào Nha.

Nhưng...
- Nói rằng Bồ Đào là Porto, Portugal... là sai bét nhè!
Ai có say xỉn, ngất ngư không xem trời đất ra cái thá gì, cũng phải công nhận là... thời Vương Hàn (687-726) nước Tàu đã có bồ đào mĩ tửu rồi. Nghĩa là nước Tàu đã có rượu nho từ 8, 9 thế kỉ trước khi người Bồ Đào Nha đến buôn bán, lập thương điếm tại Ma Cao!
Đúng hay sai, xin nhờ một người sống cùng thời với Vương Hàn là Đỗ Phủ (712-770) phân xử giùm.
Đỗ Phủ sống rất vất vả vì phải chạy loạn An Lộc Sơn. Nay đây mai đó. Đỗ Phủ được chứng kiến nhiều thay đổi, xáo trộn của xã hội.
Bài Tẩy binh mã (Rửa khí giới) của Đỗ Phủ có câu:
Kinh sư giai kỵ hãn huyết mã,
Hồi Ngột ổi nhục Bồ Đào cung.
Nghĩa là:
Nơi Kinh sư toàn dùng giống ngựa "mồ hôi máu",
Quân Hồi Ngột no thịt ở cung Bồ Đào.
- Ngựa "mồ hôi máu" là giống ngựa hay ở phương Bắc, khi chạy đường trường, mồ hôi đổ ra đỏ như máu.
- Hồi Ngột là tên một dân tộc ở phương Bắc, sang giúp nhà Đường dẹp loạn An Lộc Sơn.
Hai câu thơ trên được N. T. dịch là:
Hồi Ngột đưa thêm quân trợ thuận
Kinh sư đều cưỡi ngựa truy phong (4).

Tẩy binh mã của Đỗ Phủ gián tiếp giúp chúng ta hiểu được câu thơ của Vương Hàn:
Bồ Đào mĩ tửu dạ quang bôi nghĩa là Tại cung Bồ Đào, uống rượu ngon bằng chén dạ quang.
Cung Bồ Đào ở Trường An, thời bình là nơi khách dừng ngựa, vào uống rượu nghe đàn hát (thơ Vương Hàn), thời loạn bị quân Hồi Ngột chiếm đóng, biến thành "cung ẩm thực", ăn uống xô bồ (thơ Đỗ Phủ).
Bồ Đào của Vương Hàn là tên một cung đời Đường, không phải là rượu nho của Bồ Đào Nha. Đời Đường, Trung Quốc chưa có thứ rượu này. Ngẫu nhiên tên cung đồng âm với tên rượu.
Lý Bạch (701-762), bạn của Đỗ Phủ, cũng có hai câu thơ tương tự như thơ Vương Hàn:
Lan Lăng mĩ tửu uất kim hương
Ngọc uyển thinh lai hổ phách quang (Khách trung tác)
Nghĩa là:
Rượu ngon đất Lan Lăng đượm mùi thơm cỏ uất kim
Đựng trong chén ngọc màu hổ phách sáng ngời .
Nói tóm lại:
- Các từ điển (từ thế kỉ 16 trở về sau) định nghĩa bồ đào là rượu nho là đúng.
Nhưng thơ của Vương Hàn (trước thế kỉ 16)mà dịch cung Bồ Đào thành rượu bồ đào, rượu nho là SAI.
Bồ Đào mĩ tửu! Rượu vào lời ra. Chữ say liền với chữ sai một vần.

Lac Nguyen nói...

Viết lại cho chính xác:
Nghĩa là nước Tàu đã có "rượu nho" từ 8, 9 thế kỉ trước khi người Bồ Đào Nha đến...
Rượu nho để trong ngoặc kép (có nghĩa là Bồ Đào - LN)