BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Năm, 21 tháng 7, 2022

VỀ MỘT QUÃNG ĐỜI TRỊNH CÔNG SƠN (Kỳ 4) - Nguyễn Thanh Ty


Tác giả bài viết Nguyễn Thanh Ty

NGÀY LÃNH LƯƠNG ĐẦU ĐỜI
 
Mới ngày nào vừa trình diện để nhận nhiệm sở, thoáng cái đã đến cuối tháng lãnh lương. Ngày lãnh lương đầu tiên trong đời, chúng tôi ai nấy đều háo hức đến Ty thật sớm để được ký tên vào sổ lương. Tôi ký tên và nghĩ đến một món tiền lớn do chính tay mình làm ra. Món tiền mà từ xưa tới nay, tôi chưa hề được cầm trong tay. Hai năm trọ học ở Qui Nhơn, cha mẹ tôi phải khó nhọc lắm mới chắt chiu được sáu trăm đồng hàng tháng gửi cho tôi chi tiêu. Có tháng chậm tới ngày thứ mười mà tôi vẫn không dám viết thư dục vì tôi hiểu rõ hoàn cảnh của tôi: Con nhà nghèo.
 
Trong khi chúng tôi nôn nao chờ đợi được gọi tên vào phòng kế toán để lãnh tiền thì anh Thành, phát ngân viên, cứ đủng đỉnh hút thuốc lào. Tiếng kêu rít rít của cái nỏ cầy càng thêm sốt ruột. Lại thêm mấy ngụm trà Tàu khề khà nữa chứ.
 
Tiếng Nguyễn Đức Tín, giáo viên trường Cộng Đồng Thượng, một tay lâu năm trong nghề, rất hoạt kê và lém lỉnh vang lên:
- Bố Thành ơi! Ra tay làm phúc cho chúng em nhờ tí! Cả tháng nay chưa có hột cơm nào trong bụng cả. Hôm nay em về trễ, có mà vào nhà bằng đít.
 
Giai thoại về anh chàng Tín này rất nhiều. Chuyện nào cũng cười vỡ bụng. Có dịp sẽ kể. Khi mọi người đã cầm trong tay cái phong bì dày cộm có ghi tên mình, Tín thòng thêm một câu chót trước khi ra khỏi cửa Ty:
- Này bố Thành! Em bảo nhé! Cứ thuốc lào nhiều vào! Hai cái má hóp như hai cái hố ấy. Người cứ quắt như cái tăm, bà Thành không cho tí chút thì đừng bảo Tín này không nói trước nhá!
 
Nói xong, Tín cười hềnh hệch. Ra khỏi Ty, Sơn sải chân đi thật lẹ. Sơn cao, chân dài. Tôi thấp, chân ngắn, nên phải nhảy ba bước một mới kịp. Vừa thở, vừa kêu:
- Ông Sơn! Về nhà chớ đi đâu mà ông đi như ma đuổi vậy! Từ từ chờ tôi với chứ!
 
Dự đám cưới vợ chồng Nhượng và Cúc
Từ trái sang phải: Trịnh Công Sơn, Nguyễn Văn Ba, Đỗ Thị Nghiên, Cô Đào, Cúc và Nhượng, Đỗ Danh Đạo, Nguyễn Đức Tín, Nguyễn Thanh Ty (Tác giả viết bài này).
Ảnh chụp năm 1964
 
Sơn không đáp cứ cắm đầu đi thẳng. Vừa vào phòng, Sơn khóa trái cửa lại. Tôi ngạc nhiên chờ xem anh chàng làm cái gì đây. Sơn để nguyên quần áo, giày vớ, nằm vật ngửa ra đi văng, tay rút trong túi quần ra cái phòng bì tiền lương lúc nãy, xé phong bì, nắm hết xấp tiền 5.200 đồng, gồm giấy năm đồng, mười đồng, năm chục đồng tung lên trên trần nhà. Giấy bạc mới tinh, phát ngân viên Thành vừa lãnh từ Kho bạc ra, rơi lả tả xuống người Sơn, rơi xuống đi-văng. Sơn hốt lên, tung trở lại. Sơn cười sằng sặc. Sơn cười ha hả. Tiếng cười nghe là lạ. Nó pha lẫn niềm vui và nỗi phẫn hận. Rồi Sơn chửi thề:
- Đù mạ mi! Đù mạ mi! Tiền! Tiền!
 
Đó là lần đầu tiên tôi nghe Sơn chửi thề. Và cũng là lần duy nhất suốt ba năm sống chung với nhau.
 
Tôi để mặc Sơn được tự do trong những giây phút ấy. Tôi không muốn gây một tiếng động nào để quấy rầy Sơn đang đắm chìm trong thế giới riêng của mình.
 
Tôi yên lặng đếm tiền của mình một cách chậm rãi. Từng tờ, từng tờ. Tôi để cho mười đầu ngón tay của mình cảm nhận hoàn toàn cái cảm giác đê mê, sung sướng đang run lên từng chập với những tiếng kêu sột soạt của những tờ bạc mới tinh nguyên chạm vào nhau. Cái âm thanh nghe sao mà hấp dẫn. Cái mùi giấy bạc mới sao mà quyến rũ thế! Đầu tôi phác họa ra một chương trình mau lẹ: Hãy trích ra ba ngàn đồng, ra ngay Bưu điện mua một cái "măng đa" gửi liền về cho Má để Má mừng. Chắc Má sẽ vui lắm khi nhận được tiền do thằng con gửi về. Thằng con do bà nuôi nấng, chắt chiu, dành dụm từng đồng, từng cắc của gánh hàng đè nặng lên vai bà ngày ngày, cho con ăn học. Hôm nay có lẽ bà sẽ sung sướng và hãnh diện âm thầm, không tỏ lộ cùng ai: Con bà đã trở thành ông giáo!
 
Chiều hôm đó tất cả chúng tôi không ăn cơm nhà. Phải tự khao cho mình một chầu linh đình mới được. Tại nhà hàng Ngọc Hương (bây giờ ông bà chủ quen mặt chúng tôi quá rồi) có mặt đông đủ các ông giáo trẻ vừa mới có được một thành tích: Một tháng công vụ; Chúng tôi uống bia. Tín gọi nhà hàng ơi ới:
- Này ông bà chủ! Cho một két bia "ông Tây Cà lồ" nhé! Bia thật lạnh đấy!
 
Bia "ông Tây Cà lồ" mà Tín gọi là bia Con Cọp, loại chai lớn. Tín có những từ ngữ thật đặc biệt để gọi các vật hay những việc nghe rất buồn cười. Có lần anh ta mời Sơn và tôi đến nhà chơi. Anh ta nói oang oang giữa đám đông đang bù khú:
- Này! Xin thưa với các cụ! Hôm nay em xin phép các cụ cho em "rước" hai ông anh này đến "am" em chơi, làm mấy "ve". Xin các cụ đừng "à uôm" gì cả nhớ!
 
Đêm đó chúng tôi ăn uống tưng bừng. Cười nói hả hê. Chín giờ, điện cúp. Chúng tôi ra về, bá vai nhau đi khệnh khạng, xiên xẹo giữa phố vắng, dày đặc sương mù. Đến cuối dốc cầu, xếp hàng ngang, vạch quần, vừa đi, vừa tè, vẽ thành rồng rắn, loang lỗ trên mặt đường nhựa.
 
Ôi một thời tuổi trẻ vô tư, hồn nhiên!
Một Thầy, Một Cô, Một Con Chó Cái!
 
Tôi không hình dung được lúc ông Cao Bá Quát làm giáo thụ ở Quốc Oai cái cảnh nó ra làm sao, mà ông tả oán bằng những câu thê thảm:
 
Một thầy, một cô, một chó cái,
Học trò dăm đứa, nửa người,
nửa ngợm, nửa đười ươi!
 
Nhưng cái cảnh ông trưởng giáo Sơn ngồi dạy học ở ngôi trường Sơ cấp Thượng thì thật bi hài. Mỗi buổi sáng, cái hoạt cảnh ông đi dạy đã là buồn cười rồi. Tôi và Sơn có điểm giống nhau là không thích đeo đồng hồ. Tôi dạy buổi chiều nên tha hồ nằm nướng trên giường. Sơn dạy buổi sáng, phải dạy sớm lúc bảy giờ để đến trường. Những ngày có mặt trời thì nhìn bóng nắng, độ giờ mà đi.
 
Những ngày sương mù hay mưa dầm thì lắng nghe tiếng kèn đồng chào cờ của một đồn lính nào đó, rất xa vọng lại văng vẵng. Te te... tò tí te... tò tí te... là Sơn xỏ vội chiếc áo sơ mi ka ki vàng cụt tay, (Chiếc áo này tôi thấy từ lúc còn ở trường Sư phạm) đôi giầy Ba-Ta màu nâu. Nách kẹp cuốn vở soạn bài cuộn tròn, miệng ngậm ống vố, chân sải bương bã đến trường. Trường không xa lắm. Cách nhà non nửa cây số. Sơn lội bộ hàng ngày trên con đường đất đỏ, càng lúc càng lên dốc. Ngày nắng thì bụi đỏ mù trời. Ngày mưa đất nhão, nhèm nhẹp. Đi một lúc thì phải tìm một khúc cây hay hòn đá bên đường để gạt bớt lớp đất nhão dính vào đế giày càng lúc càng nặng. 

(Quãng đường này ông Trịnh Cung tưởng tượng ra dài đến mấy cây số, Sơn phải gò lưng đạp xe đạp đến trường).
 
Có hôm, Sơn ngồi chờ mãi vẫn không nghe thấy tiếng kèn đồng giục giã tò te, tí te, cứ ôm đàn tìm nốt nhạc. Đến khi sương tan, mặt trời ló ra thì đã trưa rồi. Ba chân bốn cẳng, Sơn phóng như ngựa phi đến trường. Nửa giờ sau, thấy anh ta đủng đỉnh ra về. Tôi hỏi:
- Ủa! Không dạy à?
- Học trò đâu mà dạy? Sơn trả lời tỉnh khô. Tôi vẫn chưa hết thắc mắc:
- Vậy thì chúng nó không đi học à?
- Không biết! Nhưng có lẽ chúng nó thấy không có thầy nên tự động ra về. Tôi đoán vậy.
- Nè ông Sơn! Trường ông sát nách Ty. Coi chừng Thanh tra Lương đi kiểm soát bất tử thì chết không kịp ngáp đó nghe! Tôi nhắc chừng. Sơn vẫn nói cứng:
- A! Tôi đâu có cho phép. Chúng nó tự động về là lỗi của chúng. Đâu phải lỗi tại tôi.
Đến nước này thì tôi chào thua, hết cãi.
 
Một hôm, tôi bỗng nảy ý định đến xem ngôi trường của ông trưởng giáo Sơn nó ra làm sao.
Leo hết con dốc ngắn, ngôi trường hiện ra trên một khoảng đất trống. Xung quanh trơ trọi, không một cây cối gì cả. Trường được ngăn đôi thành hai lớp học. Mái tranh, vách đất, không cửa nẻo. Trong lớp một bàn vuông cho Thầy, sáu bộ bàn ghế dài cho trò. Trên vách treo một tấm bảng đen đã bạc thếch chính giữa. Chắc trải nhiều năm tháng không ai buồn sơn lại. Bụi đỏ bám khắp nơi. Từ vách đến bàn ghế thầy lẫn trò. Tôi đến đó khoảng mười giờ. Học trò hầu hết là các em bé người Thượng. Chỉ xen lẫn vài em người Kinh. Có lẽ là con em của những gia đình lính đóng đồn gần đó. Tất cả đều bẩn thỉu. Có đứa ở trần, đánh độc một chiếc quần xà lõn. Có đứa cũng đủ bộ. Nhưng màu đất đỏ đã nhuộm từ ống quần trở lên, lâu ngày không còn nhận ra màu gì nữa.
 
Có lẽ là giờ ra chơi. Thầy Sơn đang ngồi tư lự. Miệng ngậm ống vố, mắt nhìn lơ đãng về cánh rừng xa xa. Mặc cho đám học trò nhỏ làm gì thì làm. Một túm đang gò lưng trên bàn, méo mồm, méo miệng nắn nót viết bài. Một tụm đang bò lê bắn bi dưới đất. Cuối lớp có vài đứa đang dựa lưng vào vách, há mồm ngủ.
 
Thấy tôi vào, Sơn cười méo miệng:
- Tới đây chi cha?
- Tới coi ông trưởng giáo làm ăn ra sao cho biết! Tôi cười cười.
- Còn ông già Thống đâu?
- Ông Thống dạy buổi chiều.
- Trường có mấy lớp anh Sơn?
- Ba. Tôi dạy lớp ba. Ông Thống lớp một và hai.
- Học sinh đông không?
- Thì ông thấy đó. Bữa nào không đi hái trà thì được hai chục. Bữa nào cha mẹ nó cần thêm nhân công thì lớp mươi, mười lăm đứa.
 
Những đứa học trò thấy người lạ thì trố mắt nhìn. Sơn gõ gõ cây thước lên bàn làm hiệu. Đám học trò ngưng hẳn cuộc chơi, chờ lệnh thầy. Sơn nói:
- Hôm nay thầy có khách. Cho các em về sớm.
 
Đám trẻ con hớn hở ra mặt, vội thu sách vở, ùa ra cửa. Trong giây lát, tất cả trở về trong yên lặng. Sơn ngồi trầm ngâm, nán lại thêm một chút nữa, đão mắt nhìn quanh một vòng, rồi tặc lưỡi đứng lên. Hai chúng tôi yên lặng xuống đồi. Trong thâm tâm, có lẽ mỗi người đang theo đuổi những ý nghĩ khác nhau. Sơn nghĩ gì? Tôi không biết. Riêng tôi thì nghĩ: May cho ông thi sĩ họ Cao ngày xưa. Ngồi dạy học ở nơi khỉ ho cò gáy, còn có một cô, một chó cái an ủi. Ngày nay ông nhạc sĩ họ Trịnh cũng ngồi dạy học ở một nơi y như vậy mà không có gì bầu bạn, ngoài một nỗi buồn cô quạnh!
 
Trên đường về, tôi gợi ý với Sơn, nên nhập hai buổi thành một, để có thêm ông già Thống cho vui. Sơn cho là ý hay.
Chiều nay tôi phải bàn với ông Thống mới được.
 
ÔNG GIÀ THỐNG: CON NGỰA GIÀ CỦA TRƯỞNG GIÁO TRỊNH
 
Sau khoảng vài tháng đầu niên khóa 64-65, ông Trương Cảnh Ngôn về hưu. Ông Lê Cao Lợi, một vị thanh tra kỳ cựu, có tu nghiệp ở Mỹ một thời gian, được Bộ đề cử chức Ty Trưởng thay ông Ngôn. Thời gian này là thời kỳ vàng son của Trịnh Công Sơn. Ông Lợi, người trung niên, có tâm hồn văn nghệ, thích thơ, nhạc, nên đối với một nghệ sĩ như Sơn, Ông dành cho nhiều dễ dãi. Đôi lúc nhắm mắt làm ngơ cho Sơn dùng thì giờ dạy học làm việc riêng của mình. Điều này đã khiến cho một vài giáo viên già, lâu năm trong nghề, so bì.
 
Khi chúng tôi đặt chân lên Bảo Lộc, trời đã vào thu. Những tháng đầu còn lạ nước, lạ cái, không biết đi đâu, làm gì cho hết thì giờ. Vì chỉ dạy có một buổi, chúng tôi có suốt những buổi chiều lang thang. Cứ hết "những bước chân âm thầm" trong khuôn viên trường Nông Lâm Súc, im lìm vắng vẽ với những tàn cây sao, cây gõ, cây gụ... cao vút tận trời xanh, lại đến đoạn đường Quốc Lộ chạy xuyên qua con phố Bảo Lộc lèo tèo vài quán ăn dọc đường ngắn củn. Chúng tôi lại đi vòng vòng bờ hồ cho đến khi chiều xuống hẳn. Sương mù bắt đầu xuất hiện trên mặt hồ. Ban đầu mỏng rồi đầy dần, đầy dần cho đến lúc che khuất hẳn một chòm cây giữa hồ. Chỉ còn thấy một thân cây chết khô với những cành khẳng khiu vươn lên trơ trọi giữa trời mây. Đến lúc đó, ai cũng cảm thấy mỏi chân. Và muốn vào quán ngồi nhâm nhi cà phê hoặc làm vài chai bia, nghe nhạc, chờ tối để về nhà tìm giấc ngủ. Trong cái không gian và thời gian đó, Trịnh Công Sơn đã cảm hứng sáng tác nhạc phẩm "Chiều Một Mình Qua Phố".
 
Một điều đặc biệt rất lạ là suốt thời gian ba năm làm nhạc tại Bảo Lộc, những nhạc phẩm "Chiều Một Mình Qua Phố", "Lời Buồn Thánh", "Vết Lăn Trầm", "Tiếng Hát Dạ Lan" và tập "Ca Khúc Da Vàng" Sơn đều đi mượn đàn của bạn. Mặc dù đã có tiền nặng túi, Sơn vẫn không có nổi cây đàn. Hay Sơn không muốn mua? Cây đàn đã giúp Sơn ghi lại những nốt nhạc mà Sơn thai nghén trong lúc đi dạy hoặc lang thang với chúng tôi ban ngày. Tối về chúng tôi say trong giấc ngủ thì Sơn say sưa ôm đàn dò lại những âm thanh chập chờn ẩn hiện trong đầu. Đó là cây đàn ghi ta của cô giáo Đỗ Thị Nghiên.
 
Sau những đêm như thế, Sơn phờ phạc hẳn. Sáng ra, giỏ rác đầy tràn những giấy nháp. Sơn chép vội những dòng nhạc vừa xuất hiện trong đầu rồi chợt biến. Vo tròn, ném, lại dò tìm. Sơn sợ làm ồn giấc ngủ của tôi, nên phải chận phím để tạo những âm thanh câm.
 
Như trên đã nói, trước đó, Sơn đã có nhiều nhạc phẩm hay nhưng chỉ chuyền tay nhau hát trong chốn bạn bè. Có lẽ không có điều kiện hay vì lý do nào đó, Sơn không thể xuất bản để phổ biến rộng rãi. Cho đến khi ở tại Bảo Lộc, sau khi hoàn chỉnh nhạc phẩm "Chiều Một Mình Qua Phố", Sơn quyết định mang đứa con của mình về Sài Gòn, tìm nhà xuất bản.
 
Sơn ở rịt tại Sài Gòn gần ba tuần lễ.
Ông giáo già Tạ Văn Thống chạy chiếc xe gắn máy hiệu Sach, cũ kỹ, già nua không thua gì tuổi đời của ông, đến chỗ chúng tôi trọ, tìm thầy Sơn.
- Thầy ơi! Thầy có biết thầy Sơn ở đâu không? Ông hỏi tôi.
 
Ông ấy về Sài Gòn rồi! Ông ta không nói gì với ông sao? Tôi đáp. Ông Thống không trả lời tôi, chỉ ôm đầu rền rĩ.
- Ối giời ôi! Tôi chết mất! Thế này thì tôi chết mất! Một mình tôi phải ôm ba lớp suốt ba tuần nay.
 
Ông lại hỏi tôi:
- Thầy có biết lúc nào ông ấy về không?
- Không! Không thể nào biết được bác Thống ạ!
- Thế thì tôi chết mất!
 
Ông vừa chào tôi, vừa rền rĩ, thất thểu dắt xe ra ngõ. Tôi nhìn theo, ái ngại cho tuổi già của ông. Vài năm nữa là về hưu, nên ông cố gắng đeo cái nghề này trong chốn đèo heo, hút gió để mong được chút tiền hưu, an hưởng tuổi già. Tình trạng này sẽ còn tái diễn dài dài. Và ông vẫn sẽ phải ôm ba lớp mà ca cẩm, rên rĩ như mọi bận. Chúng tôi gọi đùa sau lưng ông là "Con Ngựa Già Của Trưởng Giáo Trịnh". Nhại lại nhan đề một truyện ngắn.
 
(Đón đọc tiếp kỳ 5) 
                                                                               Nguyễn Thanh Ty
 

Nguồn:
http://www.ninh-hoa.com/NguyenThanhTy-VeMotQuangDoiTCS-04T.htm

Không có nhận xét nào: