Hà
Nội 1985 (ảnh: Christopher Pillitz/Getty Images)
Sau 1975, ai cũng biết, đa số người miền Bắc ồ ạt vào
Nam hơn là dân miền Nam ra Bắc. Ngoại trừ những nhân vật đặc biệt với công tác
đặc biệt có giấy phép, còn hầu hết thường dân bị cấm, nhất là đối với thành phần
“ngụy quân, ngụy quyền” như tôi.
Chỉ
có ở miền Bắc XHCN!
Cho đến khoảng năm 1979-1980, lịnh cấm ra Bắc vẫn còn
hữu hiệu. Tôi, do một nhân duyên, bà con phía chồng cũng như nhà mình đều ở
ngoài Bắc. Tôi có người anh họ bên chồng sau 1975 vào Sài Gòn làm cơ quan nhà
nước. Anh lại là trưởng đoàn trong chuyến công tác ra Bắc năm đó. Nhờ vậy mà
tôi xin quá giang anh (xe tải) ra Bắc thăm chồng cải tạo. Anh làm cho tôi một
giấy công nhân gõ rỉ của nhà máy theo đoàn công tác.
Để có bạn, tôi rủ thêm chị Nga, con dâu nhà văn Hoàng
Đạo (Tự Lực Văn Đoàn). Chị có chồng cải tạo Hà Nam Ninh, và cũng mang giấy giả
mạo như tôi do người nhà tôi giúp chị. Chuyến xe dong duổi cả tháng trời ngoài
đường như du mục từ Sài Gòn ra tới Hà Nội. Tôi và chị trải một cuộc sống bụi đường
lẫn… bụi đời, ngủ trên tấm ván kê trên những thùng phuy, hay lủng lẳng đu đưa
trên chiếc võng máng móc vào thành xe.
“Xe
điện” ở Hà Nội, 1983 (ảnh: Alex Bowie/Getty Images)
Dọc đường, để tiết kiệm chi phí, và cũng để tỏ lòng
cám ơn cho quá giang xe, tôi và chị tình nguyện làm “chị nuôi” nấu ăn cho đoàn (bảy người). Tôi làm sẵn một xô dưa cải
muối mang theo. Ngoài những lúc bất đắc dĩ vào quán ăn, xe tắp vào một thị trấn,
ghé chợ mua tí thịt, cà chua, củi lửa… rồi tìm một sân vườn nhà dân xin bắt bếp
nấu ăn. Bếp chỉ là ba viên gạch hoặc kiềng sắt ba chân. Thế là chúng tôi có bữa
cơm ngon: Một nồi canh dưa cải chua vàng vàng lẫn màu đỏ của cà chua, tí xanh
xanh của hành ngò; ăn kèm rau sống. Vậy cũng là sang trọng, ở cái thời gạo châu
củi quế.
Ra tới miền Bắc, sau khi tôi và chị hoàn thành xong việc
thăm nuôi chồng, cả hai tự túc đi xe lửa ra Hà Nội, hẹn với đoàn tại nhà một
giáo sư đại học, bà con chị Nga. Hai chúng tôi tạm ở đó. Trong khi chờ đoàn xe
công tác Hải Phòng, Bắc Ninh xong trở lại đón, chúng tôi lại có công tác mới do
đoàn giao phó. Số là khi ra Bắc, để kiếm tí tiền trang trải ăn tiêu, anh em
trong đoàn mua dừa xanh giấu ở lòng xe tải; với một số khá lớn rổ rá bằng nhựa.
Toàn là những tay bất đắc dĩ không biết làm ăn, không rành thương mại. Dừa xanh
ra tới Bắc hư gần hết phải đổ đi. Rổ rá kềnh càng bán chả được bao nhiêu lời. Số
vốn thu được, anh em nhờ tôi và chị Nga ra chợ Đông Xuân mua khoai tây để khi về
mang vào Nam bán. Nhưng rồi khoai tây về đến nơi, thúi gần hết, lại đổ!
Một
góc Hà Nội 1983 (ảnh: Alex Bowie/Getty Images)
Suốt thời gian ở Hà Nội, trong nhà bà con chị Nga, tôi
có dịp chứng kiến cuộc sống dân miền Bắc dưới chế độ XHCN. Vợ chồng anh chị
Vĩnh, người mà chúng tôi xin tá túc, được đánh giá là thành phần trí thức của
Hà Nội. Anh là giáo sư đại học; chị là giáo viên tiểu học. Anh chị được cấp một
căn phòng ở tầng trệt trong căn nhà tập thể có hai tầng. Căn nhà không lớn lắm,
cũ mèm, dành cho bốn hộ. Tầng trên hai hộ, tầng dưới hai hộ.
Căn phòng anh chị chỉ kê được một sofa nhỏ, một bàn
con, vài chiếc ghế đẩu vừa tiếp khách vừa dùng ăn cơm. Anh chị bắc ván gỗ làm
thêm gác xép, thấp lè tè, làm phòng ngủ. Lên đó chỉ có thể ngồi mà không đứng
được. Anh chị trải chiếu gần chỗ anh chị nằm dành cho tôi và chị Nga. Sát vách
phòng anh chị là mẹ con bà Huých, hàng xóm, được ngăn bởi liếp tre. Cứ ở trên
căn gác nhìn xuống và qua cái liếp tre là nghe thấy hết mọi sinh hoạt của hai mẹ
con bà.
Một buổi sớm tinh mơ, trời miền Bắc sắp vào Xuân se lạnh.
Nằm cuộn mình trong chiếc chăn ấm, lòng nhẹ thênh thang, nghe tiếng rao lanh lảnh
của người bán rong, tôi cảm nhận được nét sinh hoạt thực mà bao lâu nay chỉ đọc
qua trong sách vở, trong Tự Lực Văn Đoàn. Bây giờ mới thực sự được thưởng thức:
Ai bánh khúc nào? Ai xôi vò nào? Ai bánh cuốn nào? Ai… Tiếng rao ngọt ngào, trầm
bổng, mời gọi như hót, dễ thương làm sao. Chỉ nghe đã thấy ruột gan lăn tăn réo
gọi…
Dưới
sự dẫn dắt của (những) con bò (một góc Hà Nội, Tháng Năm 1983 – ảnh: Alex
Bowie/Getty Images)
Giữa lúc tôi và chị Nga còn nằm nướng, xeo xéo ở góc
gác, vợ chồng anh chị Vĩnh hình như cũng đang ngủ vùi, bất chợt giọng bà Huých
cất lên, lanh lảnh: “Tiên sư bố nhà chúng nó. Cứ dòm… dòm… dòm…! Nhà bà chỉ có
mỗi thằng bé. Lâu lâu nó đưa bạn gái về nhà chơi. Chúng có ‘làm ăn’ gì thì cũng
như chúng mày làm, có khác gì nào, mà cứ rình mò?!”. Tôi giật mình đưa mắt nhìn
quanh quất xem bà chửi ai. Vẫn không nghe động tịnh. Chỉ có tiếng bà tiếp tục
hung dữ cất lên, phá tan sự tĩnh mịch.
Vẫn điệp khúc: “Tiên
sư bố”… và “dòm… dòm… dòm…”, bà lặp
đi lặp lại dai dẳng. Tuy chửi nhưng âm điệu lên bổng xuống trầm, có vần có điệu.
Bỗng nhiên, có tiếng sột soạt chiếu kế bên. Chị Vĩnh ngồi dậy, quay mặt nhìn xuống
nhà hàng xóm: “Này, tôi nói cho mà biết
nhá. Mới sáng sớm hãy để cho mọi người ngủ nhá. Nhà chúng tôi không rỗi hơi đi
dòm con bà đâu nhá. Bà có câm mồm đi không nào?”.
Lời nói của chị Vĩnh như dầu đổ thêm vào lửa. Bà Huých
nổi xung thiên, chửi xối xả một hơi dài: “Tiên
sư bố nhà chúng mày. Chúng mày vễnh tai lên, cái tai dài và cao như tai lừa ấy
mà nghe bà chửi đây này. Con mắt nhà chúng mày là mắt cú vọ. Cú vọ chỉ một
tròng chứ mắt nhà chúng mày đến bốn tròng cơ. Các tròng ấy để mày liếc, mày
xéo, mày xiên, mày soi, mày rọi, mày chiếu vào nhà bà. Mày dòm từ hòn cát, mày
liếc tới hòn than, mày rọi từng hòn sỏi, mày chiếu tới hòn gạch, mày soi tới cả
hòn… thằng con bà…”.
Đến lúc này tôi chưng hửng, mới biết từ nãy giờ bà chửi
nhà anh chị Vĩnh trong khi anh chị qua nay không đụng chạm gì tới bà. Tôi thở
dài nghĩ tới viễn ảnh cái “thế giới đại đồng” mà nhà nước đang vẽ vời cho miền
Nam mình…
Trẻ
mồ côi lăn lóc ở đường phố Hà Nội (Phố cổ, Tháng Năm 1983 – ảnh: Alex
Bowie/Getty Images)
“Thế
giới đại đồng”
Trước khi ra Hà Nội, tôi vô cùng háo hức, phần được
thăm lang quân sau ba năm không gặp kể từ khi anh bị tống ra Bắc, phần sắp thưởng
thức nền văn minh XHCN như thế nào mà mỗi tối, sau giờ cơm, tôi cùng lối xóm “được” nhà nước thúc hối mời đi học nếp
sống văn minh mới XHCN. Nhưng tới nơi, tôi chưng hửng, đặc biệt khi chứng kiến
cái nhà xí tập thể của thủ đô ngàn năm văn vật tại nhà anh chị Vĩnh.
Nhà xí nhỏ như một cái chòi canh bằng gạch, nằm một
bên sát tường sân sau, cao tầm một chiếc bàn, có tam cấp để bước lên. Một
khoanh cửa nhỏ thấp lè tè phủ một tấm vải thô làm cửa vào nhà xí. Khi bước vào
phải cúi gập xuống. Mỗi khi vé tấm màn lên để bước vào thì ruồi xanh, ruồi đen
con nào con nấy to bằng móng tay cái bay ào ra. Bên trong là một ụ tro lớn trải
rộng, chừa một cái lỗ vừa đủ để…! Hai bên có hai viên gạch để người hành sự đặt
chân. Những con giòi mập ú trắng hếu bò lúc nhúc miệng lỗ. Mùi hôi thối nồng nặc.
Không hề có nước dội cầu. Mà nhà xí như vậy cũng không cần phải dội. Lại nữa,
nước vốn không đủ cho bốn hộ tập thể sống với nhau. Phải tiết kiệm tối đa. Một
cái vòi nước khiêm nhường, đặt trước buồng tắm giữa lối đi song song với nhà
xí, nhỏ một cách yếu ớt xuống bốn cái thùng của bốn hộ xếp chờ sẵn, cứ đầy
thùng này thì đẩy sang thùng khác. Ai muốn tắm phải lo hứng nước trước.
Trở lại cái nhà xí. Bên dưới cái lỗ, có một thùng lớn
hứng phân nằm trong hầm cầu, có một cửa nhỏ để mở lấy thùng phân. Khi thùng
phân đầy sẽ có ban vệ sinh đến lấy đem làm phân bón. Đường phố Hà Nội thỉnh thoảng
gặp những chiếc xe chở phân vung vãi dọc đường. Phân là một trong những “sản phẩm” quí nộp cho hợp tác xã, nhờ
đó được tăng thêm điểm để nhận thóc, do vậy, khi một con bò hay trâu phóng uế,
người “có duyên” gặp thì hốt ngay bằng
tay, chứ chạy về nhà tìm cuốc xẻng, chạy ra là mất.
Một ngày, tôi tìm thăm người cô ruột, em út của ba, mà
tôi chưa hề biết mặt trước đó. Cô tôi ở phố Khâm Thiên. Cùng huyết thống nên dù
lần đầu mới gặp, hai cô cháu đã cảm thấy gần gũi thân thiết, nhất là cả nhà
luôn nói, tôi có khuôn mặt giống cô út. Chồng cô là cán bộ từng du học Liên Xô.
Cả hai được cấp một căn nhà riêng diện tích độ 30 mét vuông nằm trong khu tập
thể, tên gọi “Khu tập thể đường sắt Khâm Thiên Hà Nội”. Nhà cô tôi, không chung
chạ như nhà anh chị Vĩnh, nhưng giếng nước và nhà vệ sinh thì chung với nhiều
nhà trong khu.
Hà
Nội 1985 (Bettmann/Getty Images)
Dãy nhà xí gồm bốn căn cho khu tập thể nằm chính giữa
một khu đất rộng. Gần đó có một giếng nước chung, cách nhà cô tôi khoảng 50
mét. Từ sáng sớm, tôi đã nghe tiếng lào xào của mọi người quanh giếng, kẻ múc
nước gánh về, người giặt giũ, tắm rửa… Ì xèo cả lên. Tôi bước về hướng nhà vệ
sinh. Trước mắt tôi, trên hành lang nhỏ dẫn vào nhà xí, phân đầy lối đi. Mùi
khai thối nồng nặc. Nhà xí này “văn minh”
hơn, đúc bằng xi măng, ngồi xổm. Tôi nhìn qua cả bốn nhà xí. Không cái nào khá
hơn. Tôi bịt mũi, nhắm mắt… Chao ôi, không thể tả nổi, thế giới đại đồng là đây
sao?
Nhà cô tôi diện tích không lớn, nhưng để thực thi
chính sách “lao động là vinh quang”
và để thêm thu nhập, cô còn nuôi heo. Hai con heo trong chuồng gần sát giường
tôi và cô nằm (khi tôi tới, chồng cô… di cư nơi khác, sáng mới về; như anh chị
Vĩnh vậy – anh chị phải gởi đứa con duy nhất về nhà ông bà nội, ngoại). Con heo
ụt ịt cả ngày lẫn đêm. May mắn là cô tôi tắm rửa heo và chuồng sạch sẽ nên
không nghe mùi hôi lắm. Tuy nhiên, tiếng ụt ịt của heo thì chẳng bao giờ ngưng.
Tôi thiếp đi trong “tiếng ru” của nó,
và lại hãi hùng khi nghĩ về cái “thế giới
đại đồng” mà tôi cũng như người miền Nam sắp đón nhận!
Ai
“giải phóng” ai?
Niềm háo hức khi sắp ra Hà Nội là được ngắm “36 phố phường” của Thạch Lam với những
quán ăn mệnh danh “đệ nhất Bắc Hà” mà Thạch Lam khẳng định… xém là đệ nhất Đông
Dương; và những cô gái Hà Thành thanh lịch… Nhưng trước mắt tôi, quán ăn đâu
không thấy, chỉ toàn những căn nhà nhỏ hẹp tối tăm nhiều năm không sơn phết. Rồi
vài tiệm tạp hóa bán lèo tèo vài thứ gia dụng. Người đẹp Hà Thành cũng chẳng thấy
đâu. Không có cảnh “Dập dìu tài tử giai
nhân. Ngựa xe như nước áo quần như nêm”. Trên đường toàn xe đạp, lâu lâu mới
thấy vài chiếc Honda được mang từ Nam ra. Nam thanh nữ tú đâu cả rồi? Sao vắng
bóng?
Đến
năm 1991 thì Hà Nội bắt đầu xuất hiện nhiều xe gắn máy (ảnh: Vittoriano
Rastelli/CORBIS/Corbis via Getty Images)
Trước mắt tôi, tất cả, là những chiếc áo cộc (tập thể
mà!) màu trắng hay xanh lơ, cổ bẻ, với quần vải đen. Hầu hết các cô đều thắt
bím. Không một ai mặc áo dài (áo dài như trong Nam, với hai tà áo “dư thừa”, đã bị kết án là phí phạm, là
tư sản). Đã thế, sự dinh dưỡng không đầy đủ, còn phải “lao động vinh quang”, nên chiều cao đa số rất khiêm nhường.
Đến
năm 1995 thì phố xá Hà Nội bắt đầu ngập quạt máy, thứ hàng điện tử gia dụng có
mặt ở Sài Gòn nhiều thập niên trước (ảnh: Wenzel-Orf/ullstein bild via Getty
Images)
Một ngày, khi dạo phố, gặp người ngoại quốc, anh họ
tôi nhắc: “Đừng đến gần họ, sẽ bị qui là
CIA, công an đến còng ngay đấy”. Anh nói thêm: “Ra đây, muốn yên thân, câm mồm là thượng sách”. Trên đường trở về
Nam, chị Nga thủ thỉ với tôi: “Thiên đường
Cộng sản là vậy sao? Đời sống như thế mà… ‘giải phóng’ miền Nam trù phú nghe
sao nghịch lý quá! Đúng là một cuộc chiến ‘chén kiểu đụng chén sành’! Thà trong
Nam tụi mình cứ để ‘Mỹ Ngụy kềm kẹp”.
Gần nửa thế kỷ nay, người Bắc vẫn vào miền Nam chứ chẳng
“ma” nào trong Nam muốn ra xây dựng sự
nghiệp và tìm kiếm cơ hội “đổi đời” ở
đất Bắc. Không chỉ vậy, bọn con ông cháu cha bây giờ thèm được Mỹ “kềm kẹp” hơn bất kỳ ai khác. Gần 50 năm
qua, miền Nam VNCH đã dạy miền Bắc XHCN vô số bài học. Gần nửa thế kỷ qua, miền
Nam đã giải phóng miền Bắc hoàn toàn ra khỏi cuộc sống tối tăm…
(TTNH) Nguyễn Trường Trung Huy 24
tháng 4, 2022
Nguồn:
https://saigonnhonews.com/nhin-lai-lich-su/ky-uc-30-4/khi-chen-kieu-dung-chen-sanh/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét