Nguồn:
Đông Pháp thời báo, Sài Gòn, số 774 (27/9/1928) &
số 776 (2/10/1928).
Học
giả Phan Khôi
(1887-1959).
Tây phương gồm cả các nước châu Âu, châu Mỹ mà nước
Pháp là một; Đông phương gồm cả các nước châu Á, mà nước ta là một. Tư tưởng của
Tây phương phát nguyên từ Hy Lạp, La Mã, Hê-bơ-rơ, song bây giờ đã hỗn thành ra
một nền tư tưởng Tây phương, nên ở đây gọi chung là tư tưởng Tây phương. Tư tưởng
Đông phương có hai tua lớn, một là Ấn Độ, một là Tàu, mà ta thuộc về tua Tàu,
nên ở đây chỉ lấy Tàu làm trọng.
Người ta thấy bên Tây về đường vật chất phát đạt tinh
xảo hơn bên Đông, rồi cho rằng văn minh Tây phương là vật chất văn minh, còn
văn minh Đông phương là tinh thần văn minh. Nói như vậy là lầm. Những cái thuyết
tự do bình đẳng, là phần hệ trọng nhứt trong văn minh Tây phương, chẳng phải
tinh thần là gì? Bên nào cũng có tinh thần vật chất cả, chẳng qua vật chất tùy
theo tinh thần của mỗi bên mà hiện ra hai vẻ khác nhau. Cái tinh thần ấy tức ở
đây tôi gọi là tư tưởng.
Ba điều tôi sắp giải ra dưới nầy chỉ là từ trong hai
cái văn minh ấy mà rút ra mỗi bên ba cái yếu điểm; ngoài ra, mỗi cái văn minh
hoặc giả đều có chỗ hay chỗ dở thì tôi không kể đến. Tôi cũng không có ý so
sánh bên nào hơn, bên nào kém; cốt muốn tỏ ra cho biết hai bên trái ngược nhau,
không thể dung nhau mà thôi.
1. Tây phương chuộng khoa học, Đông phương chuộng huyền
học
Theo ý người phương Tây, mọi sự vật trong thế gian bất
kỳ lớn hay nhỏ, thấy được hay không thấy được, hễ mình muốn biết thì phải biết
cho đến nơi, cho đâu ra đó, chớ không được mập mờ, không được lộn xộn. Bởi vậy
họ phải làm ra cái cách để mà biết. Đối với một sự vật gì, họ cứ nhặt lấy những
cái kinh nghiệm mỗi khi một ít, những cái tri thức mỗi nơi một chút, rồi quán
thông lại, lập ra những cái nguyên tắc, công lệ, và những cái thuyết có thống hệ,
mà ai cũng không cãi được nữa, thì bấy giờ sự biết mới đích xác và sự học về sự
vật ấy mới thành. ấy gọi là khoa học.
Ở phương Tây bây giờ hầu như mỗi một sự vật gì là có một
khoa học. Không những thiên văn, địa văn, quang, điện, chánh trị, pháp luật có
khoa học mà thôi; cho đến nuôi gà, trồng rau cũng có khoa học nữa. Triết học
ngày xưa đứng ngoài khoa học, mà bây giờ người ta cũng dùng phương pháp khoa học
để nghiên cứu triết học. Họ chia khoa học ra làm ba loại: là Tự nhiên khoa học,
Xã hội khoa học và Tinh thần khoa học. Những tên riêng từng khoa thì nhiều lắm,
không hơi sức đâu mà kể.
Đây cử ra một khoa y học để cho biết cái vẻ khoa học của
họ là thế nào. Y học lại gồm có nhiều khoa học khác nữa, nào là: Sanh lý học [1]
dạy về sự kết cấu và tác dụng của các cơ thể (a) trong mình người ta; Giải phẫu
học 2 dạy về từng cái xương từng mạch máu trong mình người ta; Bịnh lý học 3 dạy
về các chứng bịnh; Dược vật học dạy về các vị thuốc; tất phải biết ngần ấy khoa
học mà thiệt hành ra được đã rồi mới làm nên thầy thuốc. Đến khi chữa bịnh, thầy
thuốc nói bịnh tại tim, ấy là trái tim thiệt bị đau; nói bịnh tại phế, ấy là phổi
thiệt bị đau. Đau tim đau phổi cách làm sao thì uống thuốc gì, đều có phương nhứt
định cả, phải theo khoa học chớ không được theo ý riêng của thầy thuốc.
Tóm lại, người phương Tây biết được sự vật gì đều là
do khoa học cả. Khoa học đã thành ra như cái tánh riêng của họ.
Sự học phương Đông thì thật là mênh mông và mầu nhiệm.
Kẻ học cứ sách mà đọc tràn đi rồi hiểu được chừng nào thì hiểu. Những sự vật mà
ta muốn biết, tán mạn ra trong sách mỗi nơi một ít, không có xâu suốt lại thành
từng món một, và cũng không có đặt ra phương pháp gì để noi đó mà tìm tòi. Sách
thì dạy trước bác mà sau ước. Kinh Thơ nói vô số là chuyện, rồi ước lại một chữ
Trung, Kinh Lễ nói vô số là chuyện rồi ước lại một chữ Kính; bác thì cực kỳ là
bác, mà ước thì cực kỳ là ước(b). Đến Kinh Dịch mới là ảo diệu vô cùng: quẻ Kiền
có nói đến “rồng bay” (long phi), mà
kỳ thiệt không phải là rồng bay; quẻ Khôn có nói đến “ngựa cái” (tẫn mã), mà kỳ thiệt không phải là ngựa cái; chẳng qua
nói bóng vậy thôi, không khác nào “con rồng
có bảy đầu mười sừng” và “con thú ở
dưới đất lên” đã nói trong sách Khải huyền của kinh Tân ước. Sách Xuân thu
cũng vậy, nói “Doãn thị chết” song
không trọng tại Doãn thị chết mà trọng tại cái ý chê thế khanh; nói “thiên vương đi săn”, song không phải đi
săn mà là bị chư hầu bắt hiếp. Càng những chỗ sâu hiểm éo le như vậy, thì lại
càng tôn cho là vi ngôn đại nghĩa. Cứ theo sách thì những âm dương, ngũ hành,
cũng đều là những cái giả tượng mà thôi, chớ không phải chỉ ngay về hiện trạng
và thiệt tế mà ta ngó thấy đâu. Vì vậy cho nên gọi là huyền học.
Người nào đã chịu phép “báp tem” của huyền học rồi thì ra làm việc gì cũng đều được cả, bất
cứ việc gì, vì “vận dụng do ư nhứt tâm”.
Một ông quan có thể coi việc bộ Hộ rồi coi việc bộ Hình, luôn cả sáu bộ cũng được,
và có khi ra làm tướng đánh giặc cũng xong. Còn các nghề thợ thì nhứt thiết
không có học gì cả, hễ tập quen thì làm được, ăn thua nhau là tại cái sáng dạ.
Nói đến nghề làm thuốc của ta mới càng tỏ ra cái vẻ
huyền học, và để cho nó phản chiếu lại nghề làm thuốc của Tây vừa nói trên kia.
Bắt đầu dạy về ngũ tạng: tâm, can, tì, phế, thận, thì dạy rằng nó hiệp với ngũ
hành, phối với ngũ vị, ứng với ngũ phương và tứ thời. Dạy về dược tánh thì: một
vị bạch truật mà chủ cả công cả bổ, đã kiện tì cường vị, lại trị thấp, bĩ, hư
đàm; càn cương sao hắc thì nhập thận; hỏi tại làm sao thì bảo rằng vì “thận thuộc thủy, kỳ sắc hắc”. Những điều
ấy nếu bắt cứ theo phương pháp khoa học mà giải nghĩa thì không tài nào giải ra
được. Đến lúc trị bịnh, thầy thuốc nói là bịnh phong, nhưng phong đó không phải
là gió; nói là bịnh thấp, nhưng thấp đó không phải là ẩm ướt; thậm chí nói bịnh
tại phế, tại can, nhưng thiệt không phải là đau phổi hay đau gan. Những chữ
phong, thấp, phế, can đó chẳng qua là một thứ chữ trừu tượng 4 chớ không phải cụ
thể 5. Còn đến cho thuốc thì cùng một bịnh mà mỗi thầy đi một mặt: thầy thì
hàn, thầy thì nhiệt, thầy thì bổ hỏa, thầy thì lợi thủy, thầy thì ít vị, thầy
thì nhiều vị, mỗi thầy đều kê phương dụng dược theo ý mình. Ôi! huyền diệu là
dường nào!
Đại ý huyền học không lấy khách quan mà xem xét mọi sự
vật, chỉ lấy chủ quan mà ứng tiếp nó. Kẻ học, sau khi đã học nhiều rồi, đã hội
được vạn lý vào nhứt tâm rồi, thì có thể đem cái tâm ấy ra mà đối phó với mọi sự
vật chớ không theo y như sự mình đã học; như vậy sách Nho gọi là “thần nhi minh chi”. Ấy huyền học tương
phản với khoa học là tại đó.
2. Tây phương trọng tự chủ, Đông phương trọng thống
thuộc
Chữ tự chủ ở đây nghĩa là mỗi người làm chủ lấy mình,
cũng tức là cá nhân chủ nghĩa. Ở phương Tây, nói rằng “một người”, nghĩa là đối với thế giới, đối với quốc gia mà nói, chớ
không phải phiếm nhiên. Đã gọi là người, thì người nào cũng vậy, ai ai cũng có
cái địa vị cái tư cách đối với thế giới đối với quốc gia, thật như ta thường
nói “đội trời đạp đất ở đời”. Như vậy, người nào tự chủ lấy người ấy, không ai
thuộc về ai cả.
Bởi đó mới có sự tự do. Một người đã tới tuổi thành
nhân rồi thì không còn ở dưới quyền cha mẹ nữa. Mà cũng không ở dưới quyền
chánh phủ hay là dưới quyền ông nguyên thủ, song chỉ ở dưới quyền pháp luật. Một
người được y theo trong vòng pháp luật mà tự do. Pháp luật cho mọi người được
tư tưởng tự do, ngôn luận tự do, cư trú tự do,… những quyền tự do ấy, người
khác – dầu là cha mẹ nữa – không được can thiệp đến. Pháp luật đặt ra cốt là hạn
chế sự tự do của từng người để binh vực sự tự do cho từng người.
Lại bởi đó mới có sự bình đẳng. Mọi người đối với quốc
gia xã hội đều có nghĩa vụ và quyền lợi bằng nhau. Ai nấy đều phải nộp thuế, đều
phải đi lính, thì ai nấy đều được hưởng quyền tự do của pháp luật. Trước mặt
pháp luật, ai cũng như nấy, hễ có tội thì bị phạt, không cứ ông nguyên thủ hay
là người bình dân. Pháp luật đặt ra cũng cốt để duy trì sự bình đẳng giữa từng
người.
Bởi mỗi người đều có địa vị tư cách vững vàng, tự chủ
lấy mà không xâm phạm đến ai như vậy, cho nên khi hiệp với nhau thành đoàn thể
thì chỉnh tề và ổn kiện lắm. Quốc gia, tức là của chung của quốc dân; xã hội tức
là của chung của hội viên; đối với quốc gia xã hội ai có bổn phận gì thì làm hết
bổn phận ấy, có lợi ích thì mọi người cùng hưởng. Mới nghe họ nói những là “quốc gia lợi ích, xã hội lợi ích” thì
tưởng là xung đột với chủ nghĩa cá nhân, mà xét kỹ ra thì những cái lợi ích ấy
cũng chỉ là lợi ích cho từng người vậy.
Các nước bên Tây đều dùng cái chánh thể lập hiến, cộng
hòa được, là nhờ họ sẵn có cái tư tưởng như đã nói trên đó. Cái tư tưởng ấy tức
là cái tinh thần dân chủ.
Nói đến Đông phương. Theo cái ý nghĩa chữ “một người” ở phương Tây, thì ở phương
Đông, trừ ông vua ra, hầu như không có “người”
nào hết. Bởi vì “xuất thổ chi tân, mạc
phi vương thần”, ai cũng là thần thiếp của vua, ai cũng là dân của vua. Cứ
như sách dạy, nhân thần không được tư giao với ngoại quốc, ấy là không có tư
cách đối với thế giới; thứ nhân không được nghị luận việc chánh, ấy là không có
tư cách đối với quốc gia. Bởi vậy ai nấy phải nộp của cải cho vua, nộp cả đến
thân mình nữa; vua thương thì nhờ, bằng vua không thương mà giết đi cũng phải
chịu. Như vậy gọi là trọn cái bổn phận thờ bề trên; như vậy gọi là thiên kinh địa
nghĩa.
Không những thuộc về vua mà thôi, ai còn có cha mẹ đến
chừng nào thì phải kể cái thân mình là của cha mẹ đến chừng nấy. Lại không những
cái thân mà thôi, mình dầu có của cải, có vợ con, cũng phải kể là của cha mẹ.
Theo kinh Lễ dạy: Con yêu vợ mà cha mẹ ghét, thì con phải để vợ (c) đi; con
ghét vợ mà cha mẹ yêu, thì con phải hòa thuận với vợ. Lại dạy: có dư của thì nộp
cho tông, thiếu thì lấy của tông. Tông là người tông chủ trong gia đình, tức là
cha mẹ. Còn chưa kể đến những lời tục thường nói “Cha mẹ đặt đâu ngồi đó, bảo chết hay chết, bảo sống hay sống” thì
lại còn nghiêm khắc quá nữa.
Trọng nhứt là vua và cha mẹ, rồi thứ đến quan, làng, họ,
cũng đều có quyền trên một người. Quan, nào có phải một ông, có đến năm bảy lớp,
cứ dùi đánh đục, đục đánh săng, rút lại trăm sự chi cũng đổ trên đầu người dân
cả. Người trong làng thì kể như con của làng, cho nên nói rằng “con làng nhờ làng”. Người trong họ đối
với họ cũng vậy.
Ấy vậy, lấy ra một người ròng rặt Đông phương mà nói,
thì người ấy không tự mình làm chủ lấy mình được; song là thuộc về vua, về cha
mẹ, về quan, về làng, về họ, nếu là đàn bà thì còn thuộc về chồng nữa.
Bởi cớ ấy, trong xã hội ta như một cái thang có nhiều
nấc. Nghĩa vụ và quyền lợi của mọi người không đồng nhau: người trên đối với
người dưới không có nghĩa vụ; còn ai có nhiều quyền hơn thì được hưởng nhiều lợi
hơn. Pháp luật đối với mọi người thì tùy từng bậc mà khác: cùng phạm một tội mà
dân bị phạt trọng, quan được phạt khinh; cùng phạm một tội mà kẻ thứ ấu bị phạt
trọng, kẻ tôn trưởng được phạt khinh (d). Theo Tây phương, như thế là bất bình
đẳng; song theo Đông phương thì như thế là có trật tự.
Một đằng thì trọng tự chủ, một đằng thì trọng thống
thuộc, hai đằng tư tưởng khác nhau, cho nên trình bày ra hai cái xã hội khác
nhau. Xã hội Tây phương thì như bầy chim sẻ, con nào cũng một lứa như con nào,
và con nào cũng tự kiếm ăn cho con nấy, song cũng hiệp nhau thành bầy. Xã hội
Đông phương thì như bầy kiến, có con lớn con nhỏ, con lớn giữ phần cai quản,
con nhỏ lo việc đi kiếm ăn, song cũng hiệp nhau thành bầy.
3. Tây phương quý tấn thủ, Đông phương quý an phận
Bên phương Tây hay có những người đi bộ quanh trái đất
một vòng, đi tìm đất mới, đi thám hiểm đến Nam cực, Bắc cực, là vì họ có cái tư
tưởng trọng sự tấn thủ. Họ không chịu đầu hàng cảnh ngộ và sức tự nhiên, mà lại
cố chiến thắng cảnh ngộ và sức tự nhiên. Họ không tin có số mạng; dầu biết có số
mạng chăng nữa, họ cũng lo làm cho hết sức mình.
Vì có cái tinh thần tấn thủ, muốn chiến thắng sức tự
nhiên mà lợi dụng nó, nên mới sanh ra các thứ khoa học và làm được những công
trình to tát, như là dùng điện khí, hơi nước, bắc cầu trên sông lớn và đặt đường
hỏa xa xuyên qua núi, v.v.
Người Đông phương chỉ muốn sống cách làm sao cho êm đềm
lặng lẽ. Trời bắt thế nào thì hay thế: “Bắt
phong trần phải phong trần, cho thanh cao mới được phần thanh cao”. Sách
Nho dạy phải “lạc thiên an mạng”, sách Lão dạy phải “tri chỉ tri túc” đều là ý ấy. Trải các đời, những ông vua nào hay
đi chinh phục các nước xa, thì bị chê là cùng binh độc võ; những người nào có
chí lớn cử đồ việc lớn, thì người ta cho là không biết an thường thủ phận. Ai nấy
đều lấy sự ở nhà làm sướng, đi ra làm khổ; đến ông Lão Tử thì lại còn muốn ai ở
đâu ở đó, đến già đến chết không qua lại nhau (“lão tử bất tương vãng lai”) nữa kia!
Đối với sức tự nhiên, người phương Đông không dùng chước
chiến mà dùng chước hòa; cũng lợi dụng nó mà lợi dụng một cách khác. Một hòn
núi to và cao, người Tây có thể vỡ thành đường quanh theo chơn nó mà đi, người
Đông thì cứ để vậy mà trèo ngang qua; một cái thác, người Tây có thể dùng sức
chảy của nó dựng nên bộ máy mạnh mấy ngàn ngựa, người Đông thì không, chỉ dùng
làm chỗ ngắm cảnh và ngâm thơ. Cho nên phương Đông khó lòng mà nảy ra khoa học
được; mà như vậy thì cũng không cần dùng khoa học làm gì nữa.
Xem ba điều trên đây thì thấy ra hai cái tư tưởng Đông
và Tây nó phản đối nhau như phương nam với phương bắc, như mặt trăng với mặt trời.
Nay ta nếu muốn theo cách sanh hoạt mới của Tây phương, mà ta lại còn giữ cả tư
tưởng cũ của Đông phương thì quyết không có thể được. Âu là phải dứt bỏ tư tưởng
cũ của ta mà theo tư tưởng của Tây phương, thì mới hiệp với cách sanh hoạt mới
của ta.
Phan Khôi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét