DỤNG CỤ UỐNG TRÀ
Như đã biết ở phần trên: Đoàn trà là bánh trà được bỏ thẳng vào bình nước nóng đang sôi, rồi rót nước trà ra chén uống. Mạt trà là bột trà để trong chén rồi rót nước được đun sôi vào. Đoàn trà tức là lối của Lục Vũ đời nhà Đường, chúng ta không theo. Chúng ta hiện nay không uống theo lối Mạt trà từ đời nhà Tống như người Nhật Bản – đây là cách uống trà trong Trà Đạo của Nhật. Cả hai cách uống trà này không cần ấm trà hay trà hồ. Ngày nay chúng ta uống trà là theo lối uống trà của đời nhà Minh, khoảng thế kỷ thứ 16 : Đó là uống theo lối trà ngâm, Tiễn trà hay Yêm trà – tức là bỏ trà khô vào ấm trà, rồi chế nước sôi lên, sau đó rót ra chén mà uống. Chính cách uống trà ngâm này như trên đã nói, làm phát triển ngành gốm sứ phục vụ việc uống trà – trà cụ. Quyết định dùng tiễn trà là động cơ thôi thúc các nghệ nhân lò Cảnh Đức Trấn, tỉnh Giang Tây và lò Yixing, tỉnh Giang Tô vẽ ra nhiều kiểu ấm và chén tinh xảo cho cách thức uống trà mới.
Dụng cụ uống trà hay là Trà cụ gồm những vật gì?
Ta lần lượt thử xét xem. Nên biết, ngoài trà cụ, có 2 vật ta phải
cần có: Bếp lò hay trà táo và ấm đun nước.
Trà
táo
Món đầu tiên cần nói là bếp lò đun nước pha trà (trà
táo).Làm hỏa lò cũng là một nghệ thuật, sao cho lửa vừa đủ để nước sôi và ít cần
thêm than mới vào. Hỏa lò phải được tính toán cẩn thận: ít lỗ thì lửa không bốc
đủ, nhiều lỗ thì than mau tàn.
Ấm
đun nước
Thứ đến là ấm đun nước: ấm của người Trung Hoa thường làm bằng đồng, của Nhật làm bằng gang. Người Trung Hoa thích dùng ấm đồng vì đó là yếu tố ‘kim’ trong Ngũ Hành của thú uống trà. Ấm đun phải có kim hỏa dưới đáy mới mau sôi. Nhà văn Nguyễn Tuân đã có nói phần trên.
Trà
cụ – Bộ đồ trà
Một bộ trà thường gồm có:
– Một cái dầm, đĩa dầm để ngâm ấm trà cho nóng, gọi
là trà tẩm hay trà thuyền: Bộ trà nào cũng có một cái đĩa dầm vừa tầm với
cái ấm, để ngâm ấm mà không ngập đến miệng vòi, vì trà cần được nóng từ bên
trong đến bên ngoài, và dùng nước trong dầm đê ̉rửa chén trà cho ấm.
– Một cái ấm trà gọi là trà hồ (Sẽ bàn kỹ ở phần
dưới)
– Một cái khay hay là trà bàn
– Một chén tống và vài chén quân (Sẽ bàn kỹ ở
phần dưới)
. Về cái khay:
Tùy từng hoàn cảnh, có những cái khay mà người ta có thể súc chén đổ
ngay xuống, nhưng có loại khay phải cần thêm một cái lon hoặc bình để đổ các thứ
nước thừa thãi, bã trà … Tuy không đụng chạm trực tiếp gì đến trà nhưng khay
trà góp một phần trong thú chơi trà. Có khay làm bằng gỗ, cũng có khay làm bằng
sành sứ, chạm khắc hoa văn tùy theo sở thích người dùng. Một số loại khay trà nổi
danh cũng có tên riêng như: Chân quỳ xoi chỉ, Bàn toán, Chân quỳ dạ cá, Thành lựu…
. Về chén trà: Chén trà Phương Tây có đĩa riêng cho
từng chén, chén trà Á Đông đúng nghĩa thì không có; thay vào đó là khay trà để
đựng chén tống, chén quân và còn có tách dụng tránh nước trà rây ra chỗ ngồi.
Đĩa dầm cũng có nhiều loại như đĩa vị thủy, đĩa siêu
tương, đĩa tùng lộc, đĩa thạch lan, đĩa thạch trúc, đĩa con voi.
Ngoài ra còn có một số món linh tinh khác như: Cóng
xúc trà hay trà tắc – là thanh nhỏ cuốn cong để xúc trà trong hộp cho vào ấm
pha, tăm thông vòi, cái kẹp chén (để kẹp chén tráng nước sôi), trà kỷ (bàn nhỏ
để uống trà)… và đúng cách hơn còn phải có lư hương đốt trầm khi thưởng trà.
Ấm trà hay trà hồ và chén trà được chú ý đến nhiều nhất, nhắc đến nhiều nhất nên sẽ bàn kỹ hơn phần tiếp theo.
CÁC
LOẠI ẤM TRÀ DANH TIẾNG
1. Truyền thuyết và lịch sử
- Chúng ta thường nghe nói đến cái tên Nghi Hưng, ấm
trà Tử sa Nghi Hưng mà các cụ mua ấm ngày xưa cũng đòi cho được loại ấm này.
Vậy Tử sa là gì, Nghi Hưng ở đâu, tại sao lại đòi phải cho được ấm từ Nghi
Hưng? Xin được nói sơ qua chút về truyền thuyết và lịch sử liên quan đến
chúng.
. Đọc sử thời Xuân Thu Chiến Quốc Trung Hoa, ai
cũng biết câu chuyện Phạm Lãi với nàng Tây Thi. Ông là người đã giúp Việt Vương
Câu Tiễn trong việc trả được mối hận đối với Ngô Vương Hạp Lư. Khuyên Việt
Vương dùng Mỹ nhân kế – là nàng Tây Thi, làm cho Ngô Vương mải vui với người đẹp
mà quên mất chính sự mà bị diệt.
Sau khi chiến thắng, ông thực hành đúng câu nói của cổ
nhân là “công thành, thân thoái” (thành công rồi thì rút lui). Sự thực thì tại
ông biết xem tướng người: Thấy Việt Vương Câu Tiễn là người có cái cổ dài và
cái miệng giống mỏ chim – người như thế với tướng đàn ông thì là thứ người chỉ
có thể ở với nhau lúc hoạn nạn, nhưng không thể cùng chung sống khi giàu sang,
vinh hiển; nên ông đã xin từ chức, mặc dầu Câu Tiễn dọa dẫm đòi bắt vợ con ông,
nhưng vẫn nhất quyết ra đi. Sử ghi ông đã bơi thuyền nhỏ đến Ngũ Hồ, sau khi
đã vượt khỏi Tam Giang. Có sách ghi ông sang Tề làm đến Thượng Khanh đổi tên là
Lục Di Từ Bi, sau đó mới bỏ Tề sang Thái Hồ ở tại Nghi Hưng, đổi tên họ thành
Đào Chu Công và làm nghề đào khí, tức là đồ gốm. Ban đầu người trong làng bắt
chước ông làm đồ gốm chỉ để dùng trong vùng, sau đó tiếng tăm càng ngày càng
nổi, cả nước biết tiếng.
………..
Nhận xét của tác giả bài viết:
Theo Sử ký của Tư Mã Thiên: Phạm Lãi (525 TCN –
455 TCN) là người đã giúp Việt Vương Câu Tiễn đánh phục hận với Ngô vương
Phù Sai. Khi diệt được Ngô, đại sự thành công, Phạm Lãi cho rằng vua Việt có
tướng cổ cao, môi dài mỏ quạ, là người nhẫn tâm mà ghét kẻ có công, cùng ở lúc
hoạn nạn thì được chứ lúc an lạc thì không; nên ông không ở lại làm quan, mà bí
mật trốn đi ở ẩn.
Phạm Lãi trốn đến đến nước Tề, cha con cùng tự cày cấy
làm ăn. Nước Tề sai sứ mang ấn tướng quốc đến mời ông vào triều, nhưng ông từ
chối. Ông cùng gia quyến lại trốn đến đất Đào (nay là tây bắc Định Đào, Sơn
Đông), đổi tên thành Đào Chu công rồi khởi nghiệp kinh doanh và trở thành một
thương gia giàu có lúc bấy giờ.
Trong suốt quãng đời ẩn danh, mưu sinh bằng nghề buôn,
ông đã đúc kết cho mình và cho thiên hạ được 18 nguyên tắc kinh doanh hết sức
quý giá truyền lại cho đến nay. Sách cổ Trung Hoa sau này ghi lại với tựa là
“Đào Chu Công kinh thương thập bát tắc”, còn được gọi “Đào Chu công thương
huấn” hay “Đào Chu công thương kinh”. Người Trung Hoa gọi ông là “Thương
thánh”.
Cuốn Sử ký, mục Việt vương Câu Tiễn thế gia, phần cuối
được Tư Mã Thiên nhận định: “Phạm Lãi ba lần đổi chỗ ở mà thành danh trong
thiên hạ. Không phải ông ta chỉ bỏ đi một cách dễ dàng và thế là hết. Ông ta ở
đâu, là nổi danh ở đấy”.
Sử đâu có ghi ông làm nghề đồ gốm ở Nghi Hưng
đâu? Và thời ông, Xuân Thu Chiến Quốc chưa làm ấm trà, mãi đến đời
nhà Minh, gần 2000 năm sau, với sự phổ biến cách dùng trà ngâm- Tiễn
trà, ấm trà mới được làm ra.
- Nghi Hưng – Yixing, trước tên là Dương Tiện, nằm trên đất tỉnh Giang Tô, Vô Tích, phía tây Thái Hồ, Trung Quốc. Nó là một huyện kế cận thành phố Thượng Hải, cách khoảng 120 cây số về hướng Tây-Bắc; bên cạnh dòng Trường Giang. Tại Nghi Hưng có một loại đất sét đặc biệt, chứa nhiều thạch anh, mica, sắt, dùng để nung tạo các ấm trà không tráng men (Unglazed), gọi chung là ấm tử sa (Purple sand). Ấm Nghi Hưng là nói chung về ấm đất không tráng men (unglazed).
Đất ở Nghi Hưng thường có ba màu: tía đỏ, vàng sậm
và nâu đen. Tử sa có nghĩa là cát tím.
Như đã nói ở trên, hình như tất cả những gì có người
Trung Hoa tham gia vào đều có bên cạnh một vài huyền thoại; đất Nghi Hưng cũng
không ngoại lệ. Đất này đã được người Trung Hoa thêu dệt nên huyền thoại như
sau:
. “Xưa thôn Nghi Hưng nghèo khó có một ông sư hình
dung cổ quái đi rao: “Mại phú quý thổ, mại phú quý thổ!” (Bán đất giàu sang đây).
Ai dững dưng, . Ông sư thấy mọi người dững dưng, không ai phản ứng gì, càng ra
sức rao “Quý bất dục mãi, mãi phú như hà ?” (Không muốn mua quý, thì làm sao
giàu được). Mọi người cho ông là điên khùng, trừ một ông lão nhà nghèo. Nhà
sư dẫn ông lão đến nơi mà ông gọi là “Phú quý thổ”, nằm trong hai ngọn núi
Thanh Long và Hoàng Long (trấn Đinh Thục), dậm chân xuống đất rồi biến mất. Ông
lão bèn đào sâu xuống tìm “phú quý” thấy lớp đất sét có 5 màu: đỏ, vàng, xanh
lục, xanh lam và tím. Đó chính là tử sa”, dùng chế tạo gốm rất tốt”
Đất sét làm gốm sứ đây có đặc biệt gồm ba loại: đất
sét tử sa có màu nâu sậm; chu nê có màu nâu đỏ, và đoàn nê có nhiều màu
khác nhau từ màu lam, lục đến màu đen.
Đất tử sa không nhất thiết phải là màu tím đỏ mà có ba
màu chính là màu vàng sậm (ta gọi là màu gan gà), màu đỏ sậm (ta gọi là màu da
chu) và màu nâu thẫm ngả màu đen (tử sa). Tuy nhiên, trong ba loại màu đó đều
có nhiều sắc độ (tùy theo lượng sắt trong đất sét nhiều hay ít), lại còn tùy
theo thợ trộn các loại đất và pha chế thêm khoáng chất (nhưng tuyệt đối không
dùng màu nhân tạo để nhuộm) nên các loại ấm tử sa có thể có từ màu ngà đến màu
đen.
2. Ấm trà Nghi Hưng hay Tử sa Nghi Hưng (Nghi Hưng Tử
Sa Hồ)
Ấm trà nặn từ đất sét tử sa Nghi Hưng được
gọi là Ấm Nghi Hưng. Ấm Nghi Hưng ra đời theo loại trà ngâm từ đời nhà Minh,
theo truyền thuyết Trung Hoa kể lại do Vũ Kỳ Sinh sáng tạo ra. Nhưng ấm Nghi
Hưng thực sự lên đến đỉnh cao là đời nhà Thanh với những nghệ nhân làm ấm trà lừng
danh như Huỳnh Mẫn Chương, Trần Minh Quang, … Sự nổi tiếng của ấm Nghi Hưng
ngoài việc nó được làm bằng tay nên mỗi chiếc như một tác phẩm nghệ thuật (như ấm
có tên Bách nhi đồ chạm nổi hình 100 đứa trẻ), mà còn vì loại đất sét ở đây rất
đặc biệt, hiếm thấy nơi khác. Một số tác phẩm còn để lại tuyệt bút của một số
nhà thư pháp nổi tiếng đương thời (có ấm viết trọn bài kinh Bát Nhã Tâm Kinh
trên thành ấm).
Ấm trà Nghi Hưng hay Tử sa Nghi Hưng (Nghi Hưng Tử Sa
Hồ) đã nổi danh trên thế giới: Chúng là những tuyệt tác phẩm nghệ thuật của
Trung Hoa với đủ loại kiểu cách, dung lượng dùng để độc ẩm, song ẩm hay quần ẩm,
chứng tỏ sự khéo tay và óc sáng tạo độc đáo của các nghệ nhân nghệ sĩ.
Giá trị của ấm Nghi Hưng ở chỗ không có tráng men, nên
hấp thụ nước trà khiến càng lâu ngày trà càng có hương vị thơm hơn (cũng chính
vì vậy ấm đất Nghi Hưng không được dùng chất tẩy rửa để làm vệ sinh, thường ấm
dùng xong người ta chỉ tráng nước nóng rồi úp cho ráo).
Hình thức bên ngoài ấm Nghi Hưng cũng rất đa dạng, có
thể vuông, lục giác, tròn, thậm chí hình trái phật thủ, sừng tê giác, … Hiện
Trung Quốc xem nghệ thuật làm ấm đất tử sa một trong bốn quốc bảo cần bảo tồn,
ba thứ còn là kinh kịch, tranh thủy mạc, và lụa Tô Châu. Do vậy, trên trường quốc
tế khi nói đến ấm pha trà thiên hạ nghĩ ngay đến ấm Nghi Hưng.
Ấm tử sa không phải chỉ là một trà cụ mà còn là một
tác phẩm nghệ thuật. Ấm nặn to nhỏ tùy theo dùng cho một (độc ẩm), hai (song ẩm)
hay nhiều người (quần ẩm). Ấm quần ẩm có thể dùng cho ba, bốn hay nhiều người
nên có cái chỉ bằng nắm tay nhưng cũng có cái to bằng cái ấm trà thường.
Người xưa đã tổng kết 5 ưu điểm của ấm Tử sa:
1. Dùng để pha trà không mất đi nguyên vị của trà, “Sắc,
hương, giai uẩn” (giai uẩn có nghĩa là tiềm tàng). Văn Chấn Hanh đời Minh bình
luận trong tập Trường vật chí : “Ấm Tử sa dùng pha trà tốt nhất, đậy nắp vẫn ngữi
thấy mùi thơm, giữ nóng lâu”.
2. Thành ấm có nhiều lỗ thông khí kép nhỏ li ti (còn gọi
là khí khổng), dùng lâu ngày có thể hấp thu mùi vị trà, chỉ cần chế nước sôi
vào là có hương vị trà.
3. Nước trà pha trong ấm để quên mấy ngày không bị
thiu, mốc hay biến chất.
4. Ấm sử dụng càng lâu càng phát màu, Ngô Kiến đời
Thanh nói: “Ấm Tử sa dùng hàng ngày, năng lau chùi sẽ sáng bóng như gương”.
5. Ấm Tử sa có đặc điểm chịu được sự biến động nhiệt độ nóng lạnh tức thời mà không bị rạn nứt, lại truyền nhiệt chậm, lỡ tay cầm vào ấm không bị phỏng.
– Về hình dáng, ấm tử sa chia làm ba loại:
Ấm theo hình kỷ hà cân đối, nghĩa là tròn trĩnh, vuông vức, lục giác, bát giác hay nhiều múi. Đó là những ấm có thể dùng khuôn làm chuẩn, chỉ điểm xuyết bằng tay. Ấm có thể hình trái đào, trái thị, trái hồng hay hoa sen, hoa thủy tiên nhưng chủ yếu là cân đối. Người thợ có thể thêm thắt nặn vung ấm, vòi ấm hay quai ấm khác đi và có thể trang trí trên thân ấm những hoa quả, con thằn lằn, con chuột … hoặc đề chữ, đề thơ để tăng giá trị.
Cỡ ấm thường có 3 cỡ: Lớn, trung và nhỏ. Tùy từng
lúc, với một người nghiện nặng, trong nhà bao giờ cũng có mấy cỡ ấm: lúc một
mình độc ẩm, cần ấm riêng cho một người; song ẩm, để uống với tri kỷ; và quần ẩm,
lúc có trên ba người.
– Đặc điểm ấm Nghi Hưng:
. Đất sét Nghi Hưng nung lên rất rắn chắc bền bỉ,
không bị nứt dù thay đổi nhiệt độ bất thường khi đổ nước sôi vào. Đất còn có những
khí khổng rất nhỏ (pores) phải soi kính hiển vi điện tử mới thấy được. Những
khí khổng vi ti đó có tác dụng cách nhiệt, vừa bảo tồn hương vị, vừa không làm
cho bên ngoài quá nóng. Một đặc tính khác là khi được nung, ấm không bị co lại
hay biến dạng nên nghệ nhân dễ dàng làm nắp ấm được vừa vặn, khít khao.
Khi trong dạng thiên nhiên, đất sét Nghi Hưng mềm, có
màu vàng, nâu đen hay xanh nhạt. Sau khi nung, đất màu vàng đổi sang màu da chu,
màu đen thành màu tử sa, còn màu xanh lại biến thành màu gan gà. Màu sắc khác
nhau tùy theo lượng hoá chất trong đất, nhất là chất sắt.
Đất sét được đào lên từ lòng đất sâu, phơi khô thành từng
tảng. Những tảng đất đó được tán thành bột rồi được rây bằng những rây tre để lọc
đi tất cả sỏi đá và các chất khác lẫn trong đất sét. Bột đất sét sau đó được đổ
vào những bể nước hình chữ nhật cao khoảng thước rưỡi rồi tháo nước trong vào.
Ba ngày sau, dung dịch đất và nước đó lại được gạn qua một bể khác và để nước bốc
hơi đi cho keo lại. Đất sét được cắt ra thành từng bánh bán cho thợ làm đồ gốm.
. Người thợ khéo thường hay viết tên hiệu, có khi ngày
tháng chế tạo, niên đại hoặc đóng dấu vào đáy ấm khi tác phẩm hoàn tất. Triện
thường hình vuông, hình tròn hay bầu dục khắc nổi. Những chiếc ấm đắt tiền có
khi có thêm một cái triện nhỏ bên trong nắp ấm, hoặc một con dấu khác dưới tay
cầm. Ngoài con dấu có khi còn có vài chữ Hán. Chữ đề thường là chữ thảo do một
người giỏi thư pháp (phép viết chữ) đề bằng bút tre nhọn, khắc hẳn vào thân ấm.
Có thể chỉ là vài chữ chúc tụng nhưng có khi là hẳn một bài thơ, một đôi câu đối.
Có một câu “Hồi Văn Thi” rất được nổi tiếng đọc ngược
xuôi gì cũng được, đó là câu “Khả dĩ thanh tâm dã” có thể đọc thành “dã khả dĩ
thanh tâm”, ”thanh tâm dã khả dĩ”, hoặc “Tâm dã khả dĩ thanh”… Ý nghĩa thì mọi
người đã hiểu: “Uống trà trong cái ấm nầy thì có thể làm cho cái tâm người được
trong sáng”.
Trước đời nhà Minh người ta uống trà trong những cái ấm
lớn mà nổi tiếng nhất là ấm của Chu Cao Khởi. Sang đến niên hiệu Chính Đức,
Thái Hồ có một ngôi chùa nhỏ mang tên là Kim Sa tự; trong chùa này có vị sư hiệu
là Vô Danh, một nhà sư cũng rất thiện trà. Một hôm ông suy nghĩ: Uống trà trong
cái ấm lớn không gọn gàng, vừa tốn trà vừa tốn nước, lại không đủ hương vị.
Nhân quen với những đệ tử làm nghề đào khí, ông bèn chọn thứ đất tốt rồi tự tay
nắn lấy cho mình một cái ấm nhỏ, hình như quả trứng có nắp đậy, trên nắp có lỗ
để cho thông khí. Mang vào lò nung xong, về chùa tự pha trà uống thì đúng như ý
muốn. Chỉ cần một nắm trà, không phải đun nhiều nước, uống chén nào ra chén nấy,
hội đủ hương vị sắc, lại không phải uống nhiều đến nổi mất ngủ. Vô Danh Hồ
xuất hiện từ đó.
Vô Danh Hồ, nắn bằng tay chứ không nắn bằng bàn đạp.
Màu đất của ấm là màu đỏ đồng, hình quả trứng, đáy ấm có ấn dấu tay; khi đổ nước
sôi vào thì ấm tự sủi lên, từ ở ấm phát ra một âm hưởng nhè nhẹ, không ngừng
cho đến khi nước nguội dần.
3. Tìm hiểu ba hiệu ấm trà: Thế Đức, Lưu Bội và Mạnh
Thần
Không biết có phải vì cái bóng của nhà văn Nguyễn Tuân
quá lớn không, khi nói đến ấm pha trà người Việt hiện thời nhớ ngay câu: “Thứ
nhất Thế Đức gan gà, thứ nhì Lưu Bội, thứ ba Mạnh Thần”. Nhưng hỏi ngược lại, ấm
Thế Đức gan gà, ấm Lưu Bội, ấm Mạnh Thần như thế nào? nhiều người ấp úng. Ngay
cả Nguyễn Tuân cũng chẳng giải thích gì thêm. Chẳng biết có phải ông chỉ nghe
nói thế và kể lại hay không?
Ta thử tìm hiểu 3 loại ấm này.
Đầu tiên cần xác định, đây không phải là thành ngữ điển
tích của người Trung Hoa, mà là câu thiệu bằng thơ lục bát cho dễ nhớ của các cụ
ta (VN) ngày xưa, vì vậy “vai vế” thứ nhất, thứ nhì, thứ ba trong câu chỉ là tượng
trưng, xếp theo vần điệu cho dễ nhớ, chứ không phải thứ hạng.
Thật ra ba loại này là ba chủng loại của ấm Tử sa
Nghi Hưng, thích hợp dùng cho những loại trà đã oxy-hóa nhiều như trà Ô long, hồng
trà; không nên dùng cho trà xanh hay trà trắng. Khi các cụ thời xưa ca tụng ba
loại ấm này hẳn là giới trung lưu quen dùng trà tàu. Trong Vũ Trung Tùy Bút
của Phạm Đình Hổ cũng lưu ý “trà Ô-long thường được pha trong bình chu sa gan
gà”.
Nói chung, ba tên này là ba hiệu ấm thông dụng nhất nhập cảng vào nước ta hồi thế kỷ XVIII, XIX.
. Ấm Mạnh Thần
Trong 3 hiệu Thế Đức, Lưu Bội và Mạnh Thần, ấm Mạnh Thần có niên đại lâu đời nhất, tác giả là Huệ Mạnh Thần ở Kinh Khê, Nghi Hưng, Giang Tô không rõ năm sinh năm mất. Đại khái thời của ông là vào buổi cuối Minh đầu Thanh. . Những chiếc ấm do chính tay Huệ Mạnh Thần làm ra thường đề: “Kinh Khê Huệ Mạnh Thần chế”, “Văn Hạnh quán Mạnh Thần chế”, “Huệ Mạnh Thần chế” hoặc “Mạnh Thần chế”
. Ấm Lưu Bội
Thiệu Cảnh Nam (1796-1874) hiệu Lưu Bội chủ nhân – là
một danh gia chế tác ấm Tử Sa dưới triều Đạo Quang, ông nổi tiếng làm ra chiếc ấm
nhỏ gọi là Zhuni (Chu nê – bùn đỏ).
Trên thân ấm Zhuni, tác giả dùng dao tre khắc hai câu thơ “Hồ trung nhật nguyệt trường/ Sơn dung vô y dạng”, ý nói “Việc thưởng trà có thể quên cả thời gian”, bên cạnh ký Lưu Bội, dưới đáy ấm có khắc dấu “Thiệu Cảnh Nam ấn” bằng thể chữ Lệ thư.
. Ấm Thế Đức
Ấm Thế Đức còn gọi là ấm Tích Bao, là loại ấm trà xuất
hiện vào những năm Gia Khánh và Đạo Quang đời Thanh (1796-1850), do những danh
gia chế tạo ấm, sau đó được các văn nhân vẽ tranh, viết thư pháp, đề thơ. Ấm
làm bằng đất Tử sa, thân bọc thiếc. Núm nắp, quai, vòi được tô điểm bằng cách
khảm ngọc, chạm trỗ tinh vi, rất được giới văn nhân tao nhã yêu thích.
Ấm Tích Bao (chữ “tích” nghĩa tiếng Việt là “thiếc”)
Ấm Tích Bao do Chu Kiên (1772-1830) – tự Thạch Mai,
hiệu Thạch My, quê ở Thiệu Hưng, Chiết Giang- làm cho “Thế Đức Đường” vào những
năm Đạo Quang nhà Thanh.
Ấm Thế Đức màu gan gà (là màu gan gà luộc chín, tức
nâu pha vàng) dưới đáy có ghi 2 chữ Thế Đức. Màu gan gà là màu nâu sậm, ẩn màu
tím của lá gan con gà còn tươi khi mới mổ. Màu này cũng chính là màu tía theo
nguyên thủy chữ Hán trong “tử sa”. Nếu như thế, ấm gan gà là ấm tử sa màu nâu sậm
là màu khá thông dụng cho các loại ấm đất, chỉ sau loại màu đỏ gạch.
Ấm “Thế Ðức gan gà” mà các cụ ta nhắc đến không phải
là ấm số một trong các loại ấm Nghi Hưng. Dưới thời Minh Thanh (và cả sau này
thời Dân Quốc), người Trung Hoa có một mạng lưới thương mại rất rộng, hầu như
khắp nơi trên thế giới. Ðồ sứ, đồ đất nung là những món hàng được ưa chuộng.
Riêng các quốc gia Ðông Nam Á, ấm đất được chở sang gồm nhiều hiệu khác nhau
nhưng Thế Ðức Ðường là loại nổi tiếng nhất, kế đó là ấm nhỏ hình quả lê theo
hai kiểu Lưu Bội, Mạnh Thần. Khi chọn ấm, phân biệt Thế Ðức, Lưu Bội, Mạnh Thần
là nhãn hiệu ở đáy ấm, thường là chữ viết hay con dấu. Thế Ðức Ðường là tên một
hãng sản xuất, Lưu Bội và Mạnh Thần trái lại là tên của hai danh sư chuyên nặn ấm
đời Minh. Về sau, một số kiểu ấm của hai vị này được hình danh, gắn liền với
tên trở thành hai cái tên ấm – ấm Lưu Bội, ấm Mạnh Thần.
(Còn tiếp nhiều kỳ)
Nguyên Lạc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét