Những năm gần đây, hầu như tất cả các chùa chiền, tăng
ni, cư sĩ, Phật tử... kể cả trong nước lẫn ngoài nước, đều có thói quen gọi
QUAN Thế Âm Bồ Tát thành QUÁN (có dấu SẮC) Thế Âm Bồ Tát ?!?
Mới nghe một hai lần đầu, tôi cứ ngỡ là người ta đọc sai, đọc lộn âm, nhưng chẳng những tín đồ Phật tử, cư sĩ tăng ni mà ngay cả các Tỳ kheo Đại đức, Thượng tọa Cao tăng khi tụng kinh hay đăng đàn thuyết giảng, hễ có dịp nhắc đến QUAN Âm Bồ Tát thì đều đọc là QUÁN Âm Bồ Tát cả !
Tôi vô cùng ngạc nhiên, ngạc nhiên hết sức... Không biết tại sao Phật hiệu Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT nghe hiền hòa là thế, từ bi là thế, êm tai là thế, bỗng dưng lại bị bỏ thêm cái Dấu Sắc vô duyên nghe chói tai muốn chết ! Ấy thế, mà tại sao mọi người đều nghe theo và đọc theo cái Phật hiệu chói tai có dấu sắc kia ?!
Theo “Chữ Nho...Dễ Học” thì chữ Quan 觀 là chữ thuộc dạng Hình Thanh theo diễn tiến của chữ viết như sau:
Ta thấy:
Từ Chung đình văn cho đến Đại triện, Tiểu triện diễn tiến cho đến Lệ Thư đều do chữ QUÁN 雚 (một loại Lát để dệt chiếu, đệm) dùng làm ÂM kết hợp với Bộ KIẾN 見 là Thấy, là Gặp để chỉ Ý đúng theo phép tạo chữ của HÀI THANH (còn gọi là HÌNH THANH). Nên chữ 觀 được đọc là :
* QUAN thì có
nghĩa là Nhìn Ngắm, Xem Xét, như Tham quan 參觀,
Quan sát 觀察... là Cách nhìn,
như Quan Niệm 觀念, Quan Điểm 觀點...
Nếu đọc là :
* QUÁN thì có nghĩa là Cái chùa của các đạo sĩ ở và tu, như Bạch Vân Quán 白雲觀, Tử Dương Quán 紫陽觀...
Nhưng để truy nguyên tìm hiểu nguyên nhân của cái "dấu sắc" vô duyên kia, tôi còn tìm lật các Tự điển, Từ điển... À, thì ra chữ QUAN 觀 là Xem xét còn được đọc là QUÁN với nghĩa Xét thấu theo các tài liệu sau đây (chỉ trích những phần có liên quan):
* Từ điển Hán
Nôm :
QUAN 觀 là...
- xem, quan
sát.
1. (Động) Xem
xét, thẩm thị, Ngắm nhìn, thưởng thức.
2. (Danh) Cảnh
tượng, quang cảnh, Cách nhìn, quan điểm, quan niệm.
3. Một âm là “Quán”. (Động) Xét thấu, nghĩ thấu. Bát-nhã ba-la mật-đa tâm kinh 般若波羅密多心經: “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách” 觀自在菩薩行深般若波羅蜜多時, 照見五蘊皆空度一切苦厄 Bồ Tát Quán Tự Tại, khi tiến sâu vào Tuệ Giác Siêu Việt, nhận chân ra năm hợp thể đều là (tự tánh) Không, liền độ thoát mọi khổ ách.
* Từ điển Thiều Chửu :
Giải thích âm QUÁN như sau :
QUÁN : là Xét thấu, nghĩ kỹ thấu tới đạo chính gọi là quán. Như Chỉ Quán 止觀 yên định rồi xét thấu chân tâm, như Kinh Dịch 易經 nói Quán ngã sinh vô cửu 觀我生無咎 xét thấu cái nghĩa vụ của đời ta mới không mắc vào tội lỗi. Đạo Phật có phép tu dùng tai mà xem xét cõi lòng, trừ tiệt cái mầm ác trở nên bậc Vô thượng, nên gọi là phép quán 觀. Như Quan âm bồ tát 觀音菩薩, vì ngài tu bằng phép này, sáu căn dùng lẫn với nhau được, mắt có thể nghe được, nên gọi là Quán thế âm 觀世音.
À, thì ra QUAN 觀
là Xem Xét, là Nhìn Ngắm... Nếu đọc là QUÁN thì có nghĩa là Xét Thấu, Nghĩ Thấu...
Nhưng suy cho cùng thì Xét Thấu Nghĩ Thấu đều là nghĩa phát sinh của Xem Xét
Nhìn Ngắm mà ra thôi ! Và QUÁN còn là một phép tu tập về lục căn như có thể
dùng tai để nhìn và dùng mắt để nghe được... Như trong “Bát-nhã ba-la mật-đa
tâm kinh 般若波羅密多心經”...vv..
và..vv... Nhưng,
Ở đây tôi không nói về phép tu tập (Vì tôi có biết gì đâu mà nói), tôi chỉ thắc mắc, ray rứt không hiểu vì sao một Phật hiệu của một Bồ Tát khả kính đọc lên nghe êm ái nhẹ nhàng là QUAN THẾ ÂM Bồ Tát lại bị ai đó hô hào rồi thô bạo thêm dấu sắc vào thành QUÁN THẾ ÂM nghe thật trúc trắc chói tai. Nếu bảo là gọi cho đúng cái con đường tu tập của Bồ Tát thì càng sai hơn, vì Phật hiệu là cái tên gọi, còn con đường tu tập là cái việc làm. Hơn nữa cái Phật hiệu đại từ đại bi Cứu khổ Cứu nạn QUAN THẾ ÂM Bồ Tát mà mọi người còn gọi một cách thân mật gần gũi với cuộc sống hơn là Mẹ Hiền Quan Âm đã có từ hơn một ngàn năm trăm năm nay, từ thời Bắc Chu của Nam Bắc Triều ( 420-589 ) đời vua Diệu Trang Vương với Quan Âm Diệu Thiện và trên hai trăm năm với truyện nôm Quan Âm Thị Kính của ta dưới triều nhà Nguyễn (1802---). Phật hiệu QUAN ÂM BỒ TÁT đã đi sâu vào lòng quần chúng nhân dân, đã ăn sâu vào tâm khảm của muôn vạn tín đồ Phật tử, thì tại sao lại phải vì một lý do nào đó mà thêm vào “Dấu Sắc” cho trúc trắc khó đọc và nghe không êm ái chút nào cả !
Xin được lạm bàn về Phật hiệu QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT. Như
các Từ điển nêu trên...
QUAN 觀
là Quan sát, là Xem xét. THẾ 世
là Thế giới, là Cuộc đời nầy. ÂM 音
là Âm tín, Âm hao. Vậy thì...
QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT 觀世音菩薩
là vị Bồ Tát quan sát xem xét hết những âm tín âm hao của cuộc đời nầy, của cả
thế giới nầy, để cứu khổ cứu nạn với tấm lòng đại từ đại bi của mình cho tất cả
chúng sinh. Vì thế mà ta thường nghe mọi người niệm câu " Nam mô Đại từ Đại
bi Cứu khổ Cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát " với một tấm lòng thuần thành và lắng
lòng với Mẹ Hiền QUAN ÂM nhẹ nhàng êm ái. Nhưng nếu đọc là QUÁN ÂM thì vừa khó
nghe, vừa chói tai lại vừa có vẻ Bá Đạo nữa, vì...
Thiết nghĩ, QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT là tên gọi của Phật Bà Quan Âm đã hơn ngàn năm nay, đã thành TẬP QUÁN NGÔN NGỮ là thói quen của tiếng nói, đã ăn sâu vào tâm thức của mọi người kể cả những người không phải là tín đồ Phật Giáo thuần túy như tôi, nhưng trong đời sống ở làng quê thôn xóm với ngôi chùa ở đầu thôn hay cuối làng, mọi người đã quen rồi với từ Quan Âm Bồ Tát, nay bỗng dưng lại đổi thành Quán Âm Bồ Tát; Mẹ Hiền Quan Âm thành Mẹ Hiền Quán Âm, nghe chua xót và ngỡ ngàng làm sao ấy ! Đã là thói quen của TẬP QUÁN NGÔN NGỮ, sao ta không duy trì giữ nguyên mà lại thay đổi một cách không cần thiết như thế ? Vì mọi người, mọi tín đồ bình dân đâu cần biết đến cái phép tu tập, cái lối tu tập hay cái con đường tu tập của các bậc cao tăng chính giác mà chi, họ chỉ biết Quan Âm Bồ Tát là Mẹ Hiền Quan Âm cứu khổ cứu nạn mà thôi !
Nhớ...
Khoảng giữa năm 1994, dân Sài Gòn đọc được một bài đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng của Giáo Sư Lương Duy Thứ, Trưởng Khoa Trung của Đại Học Tổng Hợp vừa chuyển sang thành Đại Học Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn (Vốn là Đại Học Văn Khoa Sài Gòn cũ), nội dung bài báo đề cập đến việc nên dùng từ “CHÚNG CƯ 眾居” thay thế cho từ “CHUNG CƯ” với lý do CHUNG CƯ là từ kép được thành lập theo văn phạm Hán Việt, vì Tính Từ đứng trước Danh Từ cho nên cả 2 từ phải đều là Hán Việt. Thế mà từ CHUNG 終 Hán việt không có nghĩa là Chung chạ mà có nghĩa là Cuối cùng. Nên CHUNG CƯ 終居 không phải là nơi nhiều người ở chung mà là nơi ở Cuối Cùng, tức là mồ chôn hay nghĩa địa. Vậy phải đổi từ CHUNG CƯ 終居 thành CHÚNG CƯ 衆居 thì mới ổn. Vì CHÚNG 衆 là Quần Chúng 群眾, nên CHÚNG CƯ 衆居 mới là nơi Nhiều người cùng ở chung. Sau đó, các báo, đài đều hưởng ứng dùng từ CHÚNG CƯ thay thế cho CHUNG CƯ, nhưng chỉ một thời gian sau và mãi cho đến hiện nay, đã hơn 20 năm qua, thì... đâu vẫn hoàn đấy ! Tập thể Quần Chúng nói tiếng Việt vẫn thích dùng từ CHUNG CƯ hơn là CHÚNG CƯ ! Tại sao ? Vì CHUNG CƯ là từ viết tắt của nhóm từ 4 chữ “CÙNG CHUNG CƯ NGỤ”, hơn nữa từ CHÚNG CƯ nghe nó chỏi cái lỗ tai làm sao ấy !. Nên, trước mắt tất cả báo đài đều quảng cáo cho các CHUNG CƯ CAO CẤP, chớ không phải CHÚNG CƯ nữa, như CHUNG CƯ CAO CẤP Phú Mỹ Hưng chẳng hạn !
Trở lại với Phật hiệu QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT, thiết nghĩ
giới Phật tử quần chúng bình dân đã quen miệng với các cách gọi thân thương là
:
- Quan Âm Bồ Tát,
- Phật Bà
Quan Âm,
- Mẹ Hiền
Quan Âm....
đã thành một Tập Quán Ngôn Ngữ rồi, nếu bây giờ phải gọi
Bà Quan Âm là Bà QUÁN Âm thì nghe rất chướng tai và... không giống ai cả ! Nên,
theo thiển ý thì...
Khi tu tập hay khi nghiên cứu về giáo lý cao siêu của
Phật Giáo thông qua các phép, các cách hay các con đường tu tập thì qúy Tỳ Kheo
Đại Đức Thượng Tọa hay Hòa Thượng ... muốn gọi sao thì gọi, nhưng khi thuyết giảng
giáo pháp trước quần chúng nhân dân thì nên giữ theo lối gọi truyền thống trước
đây là QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT, chứ đừng cho máy phóng thanh cứ oang oang là “QUÁN
THẾ ÂM BỒ TÁT” như chọc vào tai của muôn vạn người nghe một cách bá đạo và khó
chịu vô cùng!
Trên đây chỉ là những suy nghĩ cá nhân của người viết
thông qua những phản ánh của bạn bè thân hữu chung quanh, xin chân thành gởi đến
các vị chức sắc trong Giáo Hội Phật Giáo và quảng đại thiện nam tín nữ trong và
ngoài nước để cùng nhau trao đổi và góp ý về tên gọi của một vị Bồ Tát rất gần
gũi thân thương với tất cả chúng sinh còn chìm đắm trong biển khổ !
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn QUAN THẾ ÂM Bồ Tát Ma Ha Tát !
Đỗ Chiêu Đức
3 nhận xét:
Cám ơn anh giải thích thuyết phục
Chúc an khang
Từ điển Hán Nôm cho biết:
觀 có âm Hán Việt là QUAN, QUÁN
Bát-nhã ba-la mật-đa tâm kinh 般若波羅密多心經: “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát-nhã Ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách” 觀自在菩薩行深般若波羅蜜多時, 照見五蘊皆空度一切苦厄 Bồ Tát Quán Tự Tại, khi tiến sâu vào Tuệ Giác Siêu Việt, nhận chân ra năm hợp thể đều là (tự tánh) Không, liền độ thoát mọi khổ ách.
Bạn Lê Nghị góp ý:
Thử đặt vấn đề: Phật hiệu Quán Tự Tại Bồ Tát có là một Phật hiệu khác với Phật hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát hay không?
Thiển nghĩ, Quán Tự Tại Bồ Tát là một vị soi lấy mình (chiếu kiến ngũ uẩn) mà giác ngộ không phân biệt, khổ và diệt khổ, không phân biệt tử sinh… thể hiện tóm tắt triết lý nhà Phật, tự giải thoát cho mình. (văn bản Bát nhã ba La mật đa tâm kinh, không thay đổi)
Còn Quan Thế Âm Bồ Tát là vị nghe tiếng cầu chúng sinh để cứu nạn cứu khổ chúng sinh. Thể hiện sự giải thoát cho người khác: Lạy đại từ đại bi Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn chúng con/ họ,/ nạn nhân…
(khẩu ngôn có thay đổi)
Vì vậy 2 Phật hiệu này khác nhau. Phật tử gọi danh trong 2 hoàn cảnh khác nhau.
Đăng nhận xét