Phủ thiếp Hoàng Thị Cúc của ông Hoàng Phụng Hoá Công. Về sau ông Hoàng Phụng Hoá trở thành vua Khải Định, bà được phong Tam giai Huệ Phi, rồi Đoan Huy Hoàng Thái Hậu, thường gọi là Đức Từ Cung khi con bà, vua Bảo Đại, lên ngôi.
Vợ của một nhà vua được gọi là Hoàng hậu, con trai vua
là Hoàng tử, con gái vua là Công chúa, rể vua là Phò mã. Đó là những điều mọi
người đều biết. Thế nhưng, con dâu nhà vua thì gọi là gì, lại là một điều làm
đa số mọi người thắc mắc.
Đây cũng là việc khá dễ hiểu. Trước đây các triều đại
quân chủ phong kiến của ta cũng như Trung Hoa đều có quan niệm trọng nam khinh
nữ. Phụ nữ thường sinh hoạt trong nhà, lo công việc nội trợ, sinh nuôi con cái,
không được đi học…, hầu như họ không đóng một vai trò xã hội gì khiến họ ít được
đề cập đến trong sinh hoạt xã hội. Vậy nên ngay cả khi họ là dâu của nhà vua, gọi
họ là gì cũng ít được sách vở đề cập.
Học giả An Chi trong “Chuyện Đông, Chuyện Tây” tập I
đã trả lời bạn đọc như sau:
Con dâu của vua gọi là hoàng tức (皇媳). Hoàng là một thành tố chỉ những gì thuộc
về nhà vua, liên quan đến vua. Tức là dạng tắt của tức phụ đã trở nên thông dụng,
có nghĩa là con dâu. Con rể của vua vốn được gọi là hoàng tế (皇 婿,
tế là rể).. Từ đời Nguỵ, đời Tấn, chàng rể được phong làm làm phụ mã đô uý, gọi
tắt là phụ mã, âm xưa là phò mã. Đây là một chức quan chuyên trách chuyện ngựa
xe cho nhà vua, anh chàng hoàng tế được cái tên phò mã là nhờ ở chức này
(tr.50, 51)
Ông An Chi trả lời vậy là hoàn toàn đúng theo mặt ngữ
nghĩa. Hoàng tức là tên gọi chung của dâu nhà vua... Chúng ta còn gặp từ ‘tức’
này trong thuật Tử vi với cung ‘tử tức’ nói về con và dâu.
Tuy nhiên, lạ một điều Hán Việt Từ Điển của cụ Đào Duy
Anh, Từ điển Tiếng Việt của Văn Tân, Từ điển từ Hán Việt của Lại Cao Nguyên, Từ
điển Trung Việt của NXB Khoa học Xã hội, HN, 1996, Từ điển tiếng Việt của Hoàng
Phê đều có từ ‘hoàng tử’ mà không có
từ ‘hoàng tức’. Điều này cho chúng ta
thấy từ trên được sử dụng không khá thông dụng. Chúng tôi cũng không rõ ở sách
báo nào ngày trước có sử dụng từ này.
Nếu xem báo chí và phim ảnh hiện nay, chúng ta hẳn sẽ
gặp từ thái tử phi hoặc hoàng tử phi được dùng để chỉ các nàng dâu của nhà vua.
Các từ này về mặt ngữ nghĩa cũng hoàn toàn đúng. Theo Hán Việt Tự điển của Thiều
Chửu, nghĩa thứ 3 của từ phi: vợ của thái tử và các vương hầu được gọi là vương
phi. (tr.126).
*
Vậy thì triều Nguyễn, triều đại quân chủ cuối cùng của
nước ta, gọi các nàng dâu đó là gì?
Tham khảo một số gia phả hiện đang được lưu giữ tại
các phủ, phòng chúng tôi ghi nhận như sau:
a. Theo gia phả của phòng Trấn Tịnh Quận Công thì như
sau:
Hoàng tử thứ 45 Miên Dần đã được vua cha Minh Mệnh ban
cho ngân sách (sách làm bằng bạc) vào năm Canh Tý (1840). Ông có 06 bà vợ như
sau:
1. Nguyên Cơ huý Hoàng thị ….
2. Đệ nhất phủ thiếp huý Lê Thị …
3. Đệ nhị phủ thiếp huý Nguyễn Văn Thị …..
4. Đằng thiếp huý Trần thị ……
5. Đằng thiếp huý Trần thị …..
6. Xuất thiếp huý Trần Thị ……
b. Theo gia phả của phòng Thuỵ Thái Vương thì như sau:
Hoàng tử Hồng Y là con Đức vua Thiệu Trị. Ông có 05 bà
vợ như sau:
1.Thuỵ Thái Vương Phi Lê Thị …. thụy Trang Thục.
2. Phủ thiếp Ðệ nhất phòng Trần Thị …… thụy Đoan Thục.
3. Phủ Thiếp Đệ Nhị Cơ Nguyễn Gia Thị …. thụy là Trinh
Khiết.
4. Phủ Thiếp Đệ Tứ Phòng Trưởng Nữ Quan Kỳ Sự Lê
Chương Thị đặc phong Nữ Tổng Quản Nghi Nhân thụy là Thục Hiền.
5. Phủ Thiếp Đệ Ngũ Phòng Hồ Thị …. thụy là Đông Phát.

Gia phả của phòng Tuy Lý Vương, Hoà Thạnh Vương mà
chúng tôi xem được cũng dùng từ phủ thiếp như hai phòng trên.
c. Theo Wapedia – Wiki: Lễ cưới người Việt, phần 1. 4.
Lễ nghi cung đình, có một đoạn như sau:
Lễ cưới trong giới quý tộc, quan lại ở các triều đại
phong kiến nhìn chung giống với tục cưới gả của Trung Hoa là căn cứ vào sáu bước
(lục lễ), có thể rút bớt hay kết hợp nhưng được sắp đặt cầu kỳ, tỷ mỉ, trang trọng
và xa hoa hơn trong dân gian. Việc dựng vợ gả chồng hoàn toàn do cha mẹ chủ
trương và theo lối "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy". Hoàng tử lấy vợ
chính gọi là "nạp phi" và "nạp thiếp" khi lấy vợ thứ
(khi về nhà chồng, cô dâu được gọi là phủ
phi hay phủ thiếp), và công chúa
lấy chồng gọi là "hạ giá"
(chú rể được phong Phò mã Đô uý).
d. Ở một tư liệu khác là “Chuyện các bà trong cung”
(Maxreading.com) thì ghi như sau:
“Bà
họ Trương là ái nữ quan đại thần Trương Như Cương được cưới làm phủ thiếp khi vua Khải Định còn là ông
Hoàng Phụng Hoá Công ở Tiềm đế (sau xây thành cung An Định)….”
e. Tác giả Nguyễn Đắc Xuân trong “Chuyện nội cung các vua” thì viết:
“Tiếng lành đồn xa. Khi hoàng tử Đảm – con
thứ tư của vua Gia Long - đến tuổi lập phủ
thiếp, cô (Ngô Thị) Chính được chọn sau cô Hô Thị Hoa, người gốc Gia Định.
Bà Hoa sinh ra hoàng tử Miên Tông (sau này là vua Thiệu Trị) năm 1807…..”
(tr.24)
Hay “Vào cuối đời Minh Mạng, hoàng tử Miên Thẩm được
xuất phủ, lập phủ riêng ở phường Liêm Năng (phía đông Lục Bộ trong Kinh Thành)
nạp phủ thiếp (lấy bà Trương Thị Thứ,
con gái Trương Đăng Quế - người Quảng Ngãi)” (tr.46).
Nói tóm lại, từ một số tư liệu trên, chúng ta có thể
thấy rằng dưới triều Nguyễn, dâu của nhà vua được gọi là phủ thiếp (府 妾).
Bên cạnh đó, nếu phủ thiếp là vợ
chính thì còn được gọi là Nguyên Cơ
(dẫn theo gia phả phòng Trấn Tĩnh), còn nếu ở thứ bậc thấp hơn phủ thiếp thì gọi
là Đằng thiếp (藤妾:vợ thứ) hay Dắng thiếp (媵 妾:vợ
hầu). Cần chú ý là Nguyên Cơ khác với
Nguyên Phi. Nguyên Phi chỉ vợ vua
(hay người có tước Vương, như theo gia phả của phòng Thuỵ Thái), ví dụ Nguyên
phi Ỷ Lan, vợ của vua Lý Thánh Tông.
*
Vậy ta hiểu phủ thiếp là gì? Dưới triều Nguyễn,
từ này liên hệ đến từ “xuất phủ”.
Theo một bài viết của Lê Quang Thái:
“Sách
Tùng Thiện Vương (1819 - 1870) do hậu duệ của Thi ông là Ưng Trình và Bửu Dưỡng
ấn hành năm 1970 để kỷ niệm 100 ngày mất của ông nội, cố nội mình đã cho người
đời có một ý niệm về hình ảnh của phủ đệ:
“Theo
lệ, các hoàng tử lên 14, 15 tuổi thì phải xuất phủ, nghĩa là phải ra ở ngoài Tử
Cấm Thành, biệt lập gia đình như Võ Xuân Cẩn đã tâu, xin ơn cho các hoàng thân,
hoàng tử. Tùng Thiện vương xuất phủ ở ngang với phủ Tuy Lý vương, tại phường
Liêm Năng trong Kinh Thành, phía đông Lục Bộ…”
Suy ra, phủ thiếp
là vợ (thiếp) của một hoàng tử đã đến tuổi trưởng thành (xuất phủ), có nhà ở và
gia đình riêng.
Cách gọi này của riêng triều Nguyễn khác biệt với cách
gọi của các triều đại phong kiến Trung Quốc. Âu cũng là một sáng tạo có ý thức
độc lập của tiền nhân chúng ta. Rất mong trao đổi cùng các nhà nghiên cứu khác.
Nguyễn Phúc Vĩnh Ba
1 nhận xét:
Tác giả Nguyễn Phúc Vĩnh Ba ghi:
"Nói tóm lại, từ một số tư liệu trên, chúng ta có thể thấy rằng dưới triều Nguyễn, dâu của nhà vua được gọi là phủ thiếp (府 妾). Bên cạnh đó, nếu phủ thiếp là vợ chính thì còn được gọi là Nguyên Cơ (dẫn theo gia phả phòng Trấn Tĩnh), còn nếu ở thứ bậc thấp hơn phủ thiếp thì gọi là Đằng thiếp (藤妾:vợ thứ) hay Dắng thiếp (媵 妾:vợ hầu). Cần chú ý là Nguyên Cơ khác với Nguyên Phi. Nguyên Phi chỉ vợ vua (hay người có tước Vương, như theo gia phả của phòng Thuỵ Thái), ví dụ Nguyên phi Ỷ Lan, vợ của vua Lý Thánh Tông."
Đăng nhận xét