Bản đồ của Pháp Thành Quảng Trị năm 1883 tỷ lệ xích 1/4000 có ghi chú từng nơi đánh dấu Alphabet chữ in hoa (nguồn: Võ Hương An. Tự Điển Nhà Nguyễn)
Vài lời thưa trước với bạn đọc
CỔ THÀNH HAY THÀNH CỔ
Trước 1975 danh từ CỔ THÀNH từng được gọi cho tên
Thành Quảng Trị một kiến trúc có từ thời Nhà Nguyễn.
Theo cuốn Từ Điển Nhà Nguyễn của nhà Biên Khảo Võ
Hương An
Thành Quảng Trị (Cổ Thành) đầu đời Gia Long thành là lỵ
sở dinh Quảng Trị, đặt tại Phường Tiền Kiên Huyện Thuận Xương. Qua năm Gia Long
thứ 8 (1809) mới dời về xã Thạch Hãn, huyện Hải Lăng. Năm Minh Mạng thứ 4
(1823) chỉ mới đắp bằng đất, qua năm Minh Mạng thứ 18 (1837) mới xây gạch.
Thành Quảng Trị có chu vi 481 trượng 6
thước (1926.40 mét), cao 1 trượng (4m), dày 3 trượng (12m), có 4 cửa, chung
quanh có hào rộng 4 trượng 6 thước (18.40m), sâu 8 thước (2.40m). Thành này
hoàn toàn bị phá trong chiến trận năm 1972. (trích)
Ngoài ra chúng ta nên phân biệt Cổ Thành với Làng Cổ
Thành (hình dưới).
Trước 1972 người thành phố QT gọi tắt Cổ Thành là
"THÀNH". Nói "Thành" nhưng ai cũng hiểu đó là Cổ Thành QT
Vd:
- Khi hôm có pháo kích trong Thành
- Ba hắn làm lính trong Thành
- Đi vô Cửa Hữu, Cổng Thành Đinh Công Tráng
Nhân đây người viết cũng xin nhắc lại ngày xưa ngay từ
lúc mới ra đời chữ "Thôn Đệ Tứ, Đệ Tam" đã có sau thời Đệ Nhị CH cùng
thời với phong trào "Ấp Tân Sinh" lại có tên là Phường ví dụ Phường Đệ
Nhất, P Đệ Tứ Thị xã QT... nên có cái chức là Phường trưởng, Ấp Trưởng .Cùng thời
phong trào Xây Dựng Nông Thôn đặc biệt được coi trọng.
VÁO BÀI
Biết
đâu bờ bến
Thuyền
ơi thuyền trôi nơi đâu
Trên
con sông thương
Nào
ai biết nông sâu?
THỜI GIAN QUA
MAU. ÔI 'SƯƠNG GIÓ PHÔI PHA XÓA DẦN BIẾT BAO KỶ NIỆM CỦA NHỮNG NGƯỜI THA HƯƠNG
BIỆT XỨ. NHỚ LÀM SAO MỘT BỨC TƯỜNG THÀNH RÊU PHONG PHỦ KÍN, DI TÍCH QUẢNG TRỊ,
NAY CHỈ CÒN ĐỌNG LẠI TRONG KÝ ỨC BAO NGƯỜI!
NGƯỜI QUẢNG TRỊ T LY HƯƠNG CHẲNG KHÁC CHI "CON
THUYỀN KHÔNG BẾN" THUYỀN TRÔI MÃI
CHẲNG HẸN LÚC VỀ.
ĐÊM TRƯỜNG TỈNH GIẤC TA NGHE "TIẾNG XƯA" NHƯ
VỌNG LẠI TỪ TẬN ĐÁY LÒNG... QUÊ HƯƠNG BIẾT
BAO GIỜ TRỞ LẠI? DĨ VÃNG NAY CHỈ CÒN TRONG TÂM THỨC NHƯ BAO ÂM VANG TỪ QUÁ KHỨ VỌNG VỀ, MỘT THUỞ HỒN QUÊ
(Bài tái đăng)
Ngược thời gian trở về quá khứ, tôi nhớ về Cổ Thành xa
xưa Quảng trị trong mờ nhạt khói sưong, Cổ Thành như ẩn như hiện với những gì
còn sót lại trong ký ức một người xa xứ.
Đối với tôi, hình ảnh cái thành xa xưa đó trong những
sáng mù sương chẳng khác gì một bức tranh xưa trong Việt Sử hay những truyện cổ
tích mà tôi thường đọc.
Cửa Hậu trong làn sương sớm qua trí tưởng tưởng của tuổi
thơ - tôi từng mơ màng trong cổng thành uy nghiêm kia có những vị "tướng
trời cùng muôn ngàn tinh binh gươm giáo đầy trời". Trong thinh không vắng
vẻ của ban mai, mặt hồ quanh thành bồng bềnh một màu trắng đục của màn sương
như những đám mây làm trí tưởng tưởng của tôi xa thêm- cái cổng thành như ở
trên mây, hay cái cổng "THIÊN ĐÌNH" trong truyện tranh tôi hay đọc.
Cho đến khi vầng dương lên cao, ánh nắng mai đã phá tan màn sương đục thì thành
cổ mới trở về hiện thực của nó.
Xóm tôi ở đối diện với cổng thành Cửa Hậu. Cửa Hậu còn
gọi là cửa Lao Xá vì Pháp xưa kia dùng giam giữ tù chính trị. Sau này Cửa Lao
xá cũng như nguyên tên cũng dùng để giam tù. Cửa Lao xá vẫn mở cho đến năm 1967
thì bị lấp kín sau khi phía Mặt Trận đánh và giải thoát khoảng một trăm rưỡi
người tù. Tôi nhớ cái đêm hôm đó tôi nằm trốn dưới gầm giường mà người run cầm
cập. Bên ngoài, tức là con đường Ngự - con đường kiệt đâm chạy thẳng tắp về đồng
An Tiêm - gần sáng có tiếng chân người chạy rầm rập, xôn xao. Sáng mới biết đó
là chuyện cửa Lao xá bị phá và phía bên kia đã vào được trong thành để giải
thoát tù chính trị. Ông Tỉnh Đông chạy theo đám người này. Nhưng không ai biết
ông là ông Tỉnh Đông cả. Trời hơi tờ mờ, ông một mình trốn chạy lui. Ông ngồi
trước hiên nhà ngoại tôi, tức là nhà tôi ở. Ông Tỉnh Đông lúc này bận bộ đồ tù
màu đen, trong nhà ngoại tôi không biết là ai nên cả nhà đều rất sợ. Sau này
trong nhà mới nghe nói là ông. Trong vụ đánh Lao Xá vào năm 1967, phía họ giải
thoát được đâu hơn trăm người tù nhưng phía họ cũng bị tử trận hơn mười người.
Năm
2022 bạn Nguyễn Văn Bốn người P. Đệ Tứ xưa về thăm Cửa Hậu nay chỉ còn gạch đá
rêu phong
Nhớ về Cửa Hậu tức là tôi phải kể cái mốc thời gian
trước 1967 vì khi này tôi nhớ đến cái cổng thành tôi hay vô chơi. Tụi con nít
như tôi ở xóm Cửa Hậu hay vô được vì mấy chú Bảo An gác thành cũng không e ngại
gì lũ nhỏ này chú đã quen mặt. Thế là tụi tôi vào được thành cùng với lũ bạn
con lính trong thành leo lên Thành Cổ chơi. mới biết bức tường thành dày ơi là
dày! thảo nào đất ngoài thành bị mất đi tạo thành cái hồ to lớn bao quanh. Bức
tường thành, như một con đê có con đường nghiêng nghiêng cho bọn tôi leo lên
chơi. Ngó ra xóm Hậu, hướng về đồng An Tiêm có bờ tre cong cong mờ nhạt. bọn
tôi khoan khoái biết mấy. Có đụn cát cao ai đổ sát chân thành phía ngoài chúng
tôi thi nhau đứng trên thành dám liều mình thi gan nhảy xuống. Xong, bọn chúng
tôi lại chạy vào thành leo lên nhảy xuống tiếp... Mấy chú lính Bảo An hàng ngày
gác thành đứng ngó theo chỉ cười mấy chú chẳng la rầy con nít trong xóm. Ngày
nào mấy chú cũng ra xóm chơi hay mua vài món đồ vặt nên chúng tôi quen mặt.
Từ cửa thành theo cái cầu gạch đi ra gặp đường Lê Văn
Duyệt, có hai cái chái nhà nghỉ tạm, lợp tôn cho người đi thăm tù. Ngày thăm tù
sẽ có nhiều đợt người tù có lính dẫn ra gặp gia đình.
Những giỏ đồ ăn, những miếng lá chuối đựng quà, những
mo cơm, những lời nói năng tâm sự. Hình ảnh lưu luyến của người nhà từ dưới
làng quê, những miếng cơm mang nặng hơi hám ruộng đồng và những giây phút ngắn
ngủi. Rồi người tù chính trị phải chia tay vào lại trong thành để người tù khác
ra...
Khi cái cổng sắt
khép lại, bên trong là một thế giới khác hẳn với bên ngoài. Phía ngoài là xóm Cửa
Hậu thân thương muôn thuở của chúng tôi cùng những ngày tuổi thơ vui chơi và hồn
nhiên ăn học.
Nhớ làm sao, có những đêm lũ nhỏ chơi đá lon ngoài đường
Lê Văn Duyệt, tai tôi nghe rõ tiếng kẻng của các chú lính canh đổi phiên gác
đâu đó quanh thành. Đêm về khuya, ai cũng nghe rõ tiếng mấy con chim cuốc quanh
hồ thành kêu mãi không ngưng. Tiếng chim kêu đêm nghe buồn làm sao. Trong không
gian vắng lặng, nhưng xa xa vẫn còn tiếng rao bánh mỳ vẳng lại. Mùa hè, những
đêm trăng thanh gió mát con đường ngoài thành cổ bỗng vui hơn nhờ vào mấy gánh
chè hay thỉnh thoảng có một xe phở đi bán dạo trong đêm.
Không ảnh
Cổ Thành Quảng Trị
CỔNG
LAO XÁ hay là CỬA HẬU CỔ THÀNH QUẢNG TRỊ năm 1967 đã bị đóng lấp do bị tấn công
và bên phải hình ảnh CỬA HẬU hiện nay -
2012 Bạn
cùng xóm Nguyễn v Bốn từ SG về thăm xóm cũ tháng 10 - 2022
Bạn tôi ở ngay trước con đường Ngự năm xưa nay đà bị bít lối
Hơn 5 năm trước có hai anh em Nguyễn thanh Điền
(nay vừa mất) và Nguyễn thị Thanh Tâm ra thăm Cửa Hậu
Đồng
hương P. Đệ Tứ gặp nhau tại hải ngoại (6/9/2015). Đứng
trái sang: Lê Vang - Đinh trọng Phúc , Đỗ Trung - Lê Văn- + 2 người đẹp năm xưa
Trí Bưu Góc Bầu
*
Ban ngày cửa thành Lao xá (hay Cửa Hậu) được mở mỗi
khi có một toán đông người tù được vài chú lính dẫn đi làm. Hồi đó người QT hay
gọi là đi làm "cỏ vê" (corvee) nôm na là đi làm tạp dịch. Đoàn tù sẽ
đi một đoàn dài ra tận ngoài tòa tỉnh hay mấy cơ quan công sở nào đó. Xế chiều
đoàn tù mới về.
Người viết không quên hình ảnh đoàn tù đi về có chiếc
xe kéo. Trong cái lồng vuông trên xe, có vài con chó kém may do chạy rong ngoài
đường nên bị bắt. Thời này chó chạy rong ngoài đường là có lệnh bắt do thiên hạ
sợ chó dại cắn. Nhắc đến đây, tôi nhớ hình ảnh cái thòng lọng bằng kẽm. Bàn tay
thiện nghệ của một chú tù, tiếng kêu ăng ẳng của con chó bị bắt. Tôi tin chắc mấy con chó vô phúc đó sẽ không
có ngày trở lại.
Hình ảnh đoàn tù đi làm corvee ngày đó làm tôi nhớ đến
cái chết của anh Thủ con bác Trữ sau xóm. Một chiều nọ có chú lính Bảo An đang
dẫn tù về. Đoàn tù đang đi ngoài đường Lê v Duyệt thì anh Thủ chạy ra gây hấn với
chú lính này để trả thù. Có người kể nguyên cớ là những ngày anh Thủ ở tù trong
Lao xá có tư thù với chú lính đó. Khi ra
tù anh Thủ chờ dịp người đó dẫn tù qua xóm, anh mới chạy ra gây sự trả thù. Cuộc
cãi cọ đưa đến án mạng. Trong cơn tức giận người lính sẵn mang súng, chú đuổi
theo anh Thủ vào tận trong xóm. Ngay lúc đó, tôi nghe những phát đạn từ khẩu súng tiểu liên
thompson vang lên bên xóm. Chạy vội qua, tôi chứng kiến hình ảnh anh Thủ nằm ngữa
trên nền nhà, thở thoi thóp. Lúc bị đạn, anh Thủ đang ở trần, thân hình lực lưỡng
chỉ 1 cái quần đùi. Rất may mắn trong cái phòng đó còn có cái nôi con nít đang
đu đưa nhưng không hề hấn gì. Anh Thủ nằm chết trên nền nhà bác Lê bá Oa, ông
thân anh Lê bá Lư. ( nhà xóm sau lưng nhà Hà thị bích Huờng và nhà cậu tôi). Tội
nghiệp anh Thủ; xóm Cửa Hậu chúng tôi mất Anh là mất một giọng ca vọng cổ
" rất mùi". Đáng tiếc làm sao do anh không quên đi chuyện cũ những
ngày trong tù mới có kết quả bi thảm như thế.
Nói lan man qua xóm tôi thì phải kể đến nhà ông Cai Ngữ.
Ông là thân sinh các anh Khanh, Sỏ, Thăng. Anh Sỏ học giỏi. Anh Sỏ vào đại học
Huế nhưng chưa ra sư phạm ngay mà học thêm cao học toán. Nhớ đến anh Sỏ, tôi nhớ
đến mặt anh khi nào cũng đỏ gay như uống rượu, cái áo sơ mi trắng khi nào cũng
xuề xòa bỏ ngoài, cùng dáng đi nhanh thoăn thoắt. Thời buổi này trai tráng
trong thôn ai cũng lên đường tòng quân dù ở phía nào cũng phải tuân hành lệnh
chính phủ trên ban. Trường hợp theo đuổi học vấn lên cao như anh Sỏ thì phải là
hiếm.
*
Tôi cứ lan man phải trở về chuyện Thành Cổ. Cửa Hậu chỉ
mở cho đến 1967 còn cửa Hữu tức là cổng thành Đinh công Tráng mở cho đến ngày
tan nát. Ngoài ra, cửa Tả ngó ra đường Duy Tân, Cửa Tiền ngó ra đường Lê thái Tổ
thì bị đóng từ lâu. Nhắc đến Thành thì phải nhắc đến cái hồ bao quanh. Đến mùa
nước lên tức là mùa lụt nước dâng. Từ sông Thạch Hãn nước tràn vào hồ lênh láng
làm khổ những dãy nhà xây sát bờ hồ. Đất hẹp người đông, dĩ nhiên hồ Thành cũng
bị lấn nhưng chuyện này cũng giúp cá trong hồ sinh sôi nảy nở rất nhiều. Thế là
lúc mùa khô về, khi hồ Thành chỉ còn xâm sấp nước cùng màu xanh của lục bình là
lúc những người tù "nhà phạt" trong thành bị dẫn ra ra tát cá. Xóm Cửa
Hậu vui lây từ tiếng ồn ào của người tù tát nước bắt cá. Cá nhiều lắm. Mấy cái
thùng phuy chẳng bao lâu lại đựng đầy ắp cá.
Ở hồ cá bắt được toàn là cá tràu (lóc). Trên mé đường quan, người dân
xóm chúng tôi, nói đúng ra là cả phường chúng tôi đứng chờ sẵn. Xế trưa khi cả
trăm người tù cùng mấy thùng cá vào hết trong thành; vừa lúc 2 cánh cửa thành
khép lại là chúng tôi a nhau xuống hồ. Lúc này tiếng ồn ào huyên náo của người
dân lại còn gấp mấy lần lúc sáng. Những tốp nhỏ chia nhau từng lô tát thật cạn
nước để mò cá. Có đứa mò thật tài chỉ chút chi là được mấy con tràu to bằng cán
rựa. Có đứa giỏi hơn bắt được cả mấy con lươn dài ngùng ngoằn vàng hươm. Tôi sợ
nhất mấy con rô hay con hẽn (cá trê) cái ngạnh, cái kỳ của chúng nhọn hoắt làm
chảy cả máu tay. Lớp bùn dày của hồ này nó còn tiềm ẩn bao nhiêu con cá chưa bắt
được nhưng nó không thoát được những bàn tay mò cá giỏi cùng tính chịu khó. Bà
con trong xóm a nhau tới coi con cá tràu to nhất nó bị quăng ngay lê bờ vì nếu
để nó vùng vằng lâu sẽ truột khỏi tay và trốn thoát dưới bùn. Lại thằng Mẹo hắn
việc chi cũng rành. Con tràu to nhất là của nó; sau khi quăng con tràu lên bờ
nó vọt theo đè cả người lên con cá đang vẫy vùng muốn thoát lại xuống hồ. Nói
chung cá và hồ là sở hữu của Thành người dân không có quyền chi, thế nhưng ngày
tát cá thu nguồn lợi từ cái hồ trước mặt cửa Lao xá thì quân dân ai cũng có phần
chẳng hề làm khó. Khi mùa khô tháng hạ thực sự đến, người tù Lao Xá lại ra trồng
rau muống để có thêm rau cho tù ăn.
*
Từ cửa Hậu trong thành ngó về hướng sông sẽ có cái
chòi canh cao ngất xây từ thời Pháp nên không ai còn dùng. Cái chòi này từ An
tiêm Nại Cửu nhìn lên thành phố là thấy. Ngày xưa khi học lớp nhì Trường Nam, tôi
hay theo mấy đứa bạn ở "trại gia binh" theo Cửa Hữu để vào. Nhà thằng
Hùng học cùng lớp, ba hắn nghe đâu là trung úy người nam và nhà đứa bạn ở cái
nhà Gia Binh sát cái chòi canh cao ngất. Tôi có dịp mon men tới đứng cạnh cái
chòi nghe đâu xây từ thời Pháp này. Nhìn cái thang sắt sét rỉ, tôi nhát gan chỉ
tới gần và chẳng dám leo lên. Phía chân
cái chòi cao này, có một đoạn thành bị sập ngó ra con đường Lê văn Duyệt. Hồi
này người trong thành có ra đây xây mấy cái hồ nuôi cá rô phi. Trên mé đường Lê
văn Duyệt phải qua cái cửa đúc xi măng có khắc hình cá rô phi đàng hoàng. Sau
này nuôi cá không xong, lại trồng rau muống, cuối cùng lại biến thành Trại Gà.
Từ Trại Gà trong thành, qua mấy hồ cá bỏ hoang, leo
lên đường Lê văn Duyệt chúng ta nếu quẹo trái sẽ hướng múi đầu Trần Hưng Đạo.
Nhưng trước tiên phải gặp nhà ông Đội Chức. Nhà ông có mấy cây đào lựu lâu năm
rậm rạp người ta đồn có tinh (tức là ma cái). Dân trong thôn thêu dệt chuyện
Anh Trần Đại -bạn ngang lứa với nhà văn Hoàng Long Hải - con ông Đội Chức
"điên điên tàng tàng" gì đó. Thiên hạ ác khẩu đồn rằng do anh "lấy
con tinh" cái kia làm 'vợ'. Thiên hạ 'thêm mắm thêm muối' rằng: đêm khuya
đi ngang Miếu Âm Hồn này còn nghe tiếng ru con nữa mới là rùng rợn. Nói gì thì
nói ngay ngả ba Lê văn Duyệt múi Trần hưng Đạo phía một góc đất kế con hói tức
đối diện miếu này có một bãi tha ma. Người lớn kể lại rằng Tây bắn tù chính trị
chôn lấp ở đây nhưng có người viết khác ví dụ cũng theo nhà văn Hoàng long Hải
(Tuệ Chương) thì bãi tha ma này là nơi chôn những hài nhi từ nhà thuơng Tây gần
đó - sau này là trường Nữ Tiểu Học Quảng trị - đem ra chôn tại đây. Sau này bãi
tha ma trở thành những nấm mồ vô chủ theo ngày tháng đất đá mòn dần không ai
nhang khói và mất dần dấu vết. Ngoại trừ mấy ngôi mả bằng đá, người viết ngày
ngày đi học ngang đó còn thấy, có người nói là mả Nhật thì không bị thời gian
phá hoại thôi.
Tác giả khó quên thứ cảm giác "ơn ớn" mỗi
lúc đi học ngang qua Miếu Âm hồn (theo bác Hoàng Long Hải thì Miếu Đôi nằm sát
với bờ sông Thạch Hãn gần tới chùa Tỉnh Hội còn đây là miếu Âm Hồn ngày xưa người
viết cũng hay nhầm) và bãi tha ma đó cũng theo bác Hải thì đây là nơi chôn cất
những người chết từ nhà thuơng tỉnh gần đó, nhà thuơng này sau này làm trường Nữ
tiểu học QT- ngó qua Trại Tuyển Mộ.
Miếu Âm Hồn này cạnh "xóm Heo", tên xóm này
người dân trong phường Đệ Tứ đặt với nhau, lâu ngày quen miệng. Sau này tôi
cũng bớt sợ miếu âm hồn đó nhờ ngày rằm nhóm "THIÊN TIÊN THÁNH GIÁO"
của ông họa sĩ tên Tư nào đó trên phố QT, cứ dịp rằm ông Tư hay về làm lễ trong
miếu này.
Con
lân đúc nổi trên tấm bình phong trước miễu - hai con mắt "ma quái" cuả
nó như đang lom lom nhìn tôi...
Đi học ngang
qua tôi có ghé vô miếu coi. Ông Tư lúc nào cũng giả trang làm "BÀ"
cùng các bà kia phấn son lòe loẹt, tiếng 'cóc xèng xèng", tiếng ông Tư lên
đồng, cùng khói hương nghi ngút làm tôi hết cả sợ khi nhìn con lân đúc nổi trên
tấm bình phong trước miễu - hai con mắt "ma quái" cuả nó như đang lom
lom nhìn tôi. Bà ngoại tôi có kể rằng mạ tôi ngày xưa hồi nhỏ đi theo ngoại
tôi, mạ tôi đi sau ngoại tôi chợt linh tính sao nhìn vô trong miếu thấy một khuôn
mặt như mặt mèo, hai con mắt xanh lè. Mạ tôi sợ "cứng cả người"á khẩu
không nói được, về nhà bà ngoại tôi vuốt tim xoa dầu " hu' ba hồn bảy
vía" rất lâu mạ tôi mới hoàn hồn. Từ câu chuyện ngoại kể lại nên lúc nào
đi học ngang Miếu Đôi tôi cũng sợ. Nhìn mấy chùm đào lựu xum xuê trái trên mấy
cành cao che phủ nóc miếu tôi chẳng 'dám thèm" cúi đầu đi thẳng. (Chỉ khi
qua nhà ông đại úy Đối có mấy trái đào tiên trăng trắng (trong nam gọi mận) ló
ra ngoài bức tường rào tôi mới có gan kiếm vài trái mà thôi.
Cạnh miếu có mấy cây ngô đồng cổ thụ đầy bóng mát. Gia
đình phật tử trong phường chùa Tỉnh hội hay tụ họp sinh hoạt cùng các em oanh
vũ.
Ngang xóm Heo là bắt đầu con đường Trần hưng Đạo. Từ
múi đầu đường này đi lên ít bước là Trại Tuyển Mộ Nhập Ngũ, bước qua Cao Thắng
mới tới Trường Nam.
Đoàn
hát bội Hoa Mai (hình tượng trưng)
Tiếng là "bốn ngã đường thành", nhưng theo ý
tôi con đường Lê văn Duyệt là vui nhất. Trước tiên vì nó có sinh hoạt của người
tù ra vô hàng ngày qua cổng Lao Xá, có lính tráng ra mua bán, và phải nói đến
đám HÁT BỘI tên là HOA MAI của ông ĐƯƠNG "đóng quân lâu dài" trước mặt
nhà ông Đội Chức nơi cái bãi đất làm sân bóng trong thôn. Ông Đương và đoàn Hoa
Mai của ông rất nghèo, nghèo đến nỗi cả đoàn không còn tiền để về lại quê huơng
Quảng Nam của ông. Lúc đầu người dân thôn tôi tức là thôn Đệ Tứ (đường Lê v Duyệt)
còn tiền coi dần dà hết tiền khách vắng dần. Hồi đó tôi rất mê hát bội của đoàn
hát này. Do chẳng có cái thú nào hơn đoàn hát này. Rất lâu mới có một đoàn chiếu
phim công cộng. Có đoàn cải lương nào đó trong nam ra thành phố Quảng trị lại
còn hiếm hoi hơn. Dù có hay không, tôi
làm gì mua nỗi cái vé đắt tiền của các đoàn cải lương nổi tiếng như Thủ Đô,
Hương Mùa Thu, Thanh Minh -Thanh Nga dạo đó?
Người kể xin trở lại đoàn hát bội Hoa Mai. Ông bà Đương đóng đủ vai- từ Phật THÍCH CA,
Quan Âm thị Kính, cho đến Quan Công, Trương Phi ông cũng đóng "tuốt luốt". Tôi nhớ làm sao, tiếng trống "cầm chầu"
của mấy cụ già. Mấy dồng bạc quăng lên sân khấu thuởng cho diễn viên cùng cái
bóng lom khom của đửa nhỏ nhanh nhẩu chạy ra lượm tiền. Đoàn hát trú ngụ ở phường
chúng tôi lâu quá, tài tử đẻ thêm con. Túi tiền dân trong phường lâu ngày cũng
cạn. Sự tò mò háo hức cũng tan dần khi nhìn thấy bà bầu tức vợ ông Đương cùng
những bà vợ mấy ông kép khác ban ngày ra chợ không còn "hình dáng mỹ miều"
như lúc đóng tuồng mà là những bà đào về chiều già nua, nhăn nheo đến thảm thiết. Tôi còn nhớ, có những đêm mưa, vắng khách, tiếng
ông Đương van nài "xin quý vị coi giúp cho đoàn tôi vì mùa đông mưa gió tội
nghiệp!!!"...
Sự buồn rầu ảo não cùng thê lương của một đoàn hát
"về chiều" lại bị mắc kẹt lại tại một thôn xóm cũng nghèo ngày đó quả
là một dấu ấn khó quên cho cuộc đời nghệ sĩ.
Bao nhiêu cảm nhận đáng thương cho những ai làm văn hóa mà cơm không đủ
ăn áo không đủ mặc, đáng lẽ họ phải được nâng đỡ và bảo trợ cho những công việc
bảo tồn giềng mối đạo đức phong hóa cho dân tộc.
THỜI GIAN QUA MAU. ÔI 'SUƠNG GIÓ PHÔI PHA BÓNG NGUYỆT
TÀ..." NHƯ CÂU THƠ XƯA HÀN TÍN. BỨC TƯỜNG THÀNH RÊU PHONG PHỦ KÍN, DI TÍCH
QUẢNG TRỊ, NAY CHỈ CÒN ĐỌNG LẠI TRONG KÝ ỨC NHỮNG AI CÓ TÂM HỒN HOÀI CỔ.
Kể lại cho thế hệ sau người viết thường mang một hoài
bão trong lòng. Lòng mong ước sao với trí tưởng tượng phong phú của tuổi trẻ
hôm nay sẽ có một THÀNH CỔ uy nghi từng mang tên danh tướng Đinh Công Tráng như
hiện về cùng với cháu con.
Cali, ngày 6 tháng 11 năm 2011
Đinh Hoa Lư
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét