Khái
Hưng (1896 - 1947) là một nhà văn Việt Nam nổi tiếng. Cùng với Nhất Linh, ông
là cây bút chính của Tự Lực Văn Đoàn. Truyện ngắn “Cái ấm đất” do ông viết năm 1940.
- Cha sinh được ba con, nhờ trời cùng khỏe mạnh và nết na. Đó là sự quý báu nhất và sung sướng nhất trong đời cha. Trong đời cha, cha đã làm nhiều điều ác, nhiều sự bất công, cha xin thú thực thế trước khi nhắm mắt vĩnh biệt các con.
Nhưng đối với các con thì cha chỉ có một lòng thương mến, chiều chuộng. Có lẽ cũng vì quá thương mến chiều chuộng các con, và quá nghĩ đến tương lai tốt đẹp của các con mà cha đã ác nghiệt, bất công đối với kẻ khác.
Trong khoảng bao nhiêu năm cha đã bòn chắt làm giàu, cha đã hà hiếp bóp hầu bóp họng người ta để có được cái tài sản ngày nay mà cha sắp đem chia cho ba con, chia một cách thực công bằng, nghĩa là chia ra ba phần thực ngang nhau.
- Sự công bằng, cha vẫn yêu quý sự công bằng, khốn nỗi cha lại yêu quý các con hơn sự công bằng, vì thế mà dù bản tâm công bằng cha đã nhiều lần trở nên thiên lệch. Thôi thì không công bằng với người đời, ít ra hôm nay cha cũng công bằng được với các con.
Cha muốn rằng sau khi cha từ trần, các con sẽ không kêu ca một điều gì về sự bất công của cha, và sẽ hoàn toàn ưng thích phần gia tài mà cha sắp chia cho.
Người con cả và người con thứ hai cùng ngắt lời, kêu:
- Một cái ấm đất?
- Ừ, một cái ấm đất. cái ấm đất ấy hiện cha chôn ở dưới một chân giường cha đương nằm đây. Cha yêu quý nó lắm. Ở đời nếu có vật gì cha yêu quý hơn cả các con thì vật ấy là cái ấm đất của cha. Chính nhờ nó mà ngày nay cha có nhà cửa nguy nga và vườn ruộng hằng trăm mẫu. Các con hãy để cha kể lịch sử nó cho các con nghe.
“Hẳn
các con cũng biết mang máng rằng ngày xưa cha nghèo lắm. Nhưng chắc các con
chưa rõ, chắc các con không thể tưởng tượng được cha nghèo đến bực nào. Ông bà
sớm mất, cha phải mang thân đi tha phương cầu thực, trong hầu bao chỉ vỏn vẹn
có hơn quan tiền?
Đó là tất cả gia tài mà ông để lại cho cha, và túp nhà tre lợp rạ làm nhờ trên một miếng đất công của làng đã sụp sau một trận bão lớn. Nhưng dù nghèo và mới mười hai tuổi đầu cha vẫn không lo chết đói, cha vẫn tin ở sức cha, ở lòng can đảm của cha và hy vọng ở tương lai, tuy tương lai chỉ lờ mờ xa lắc.
“Buổi đầu bỡ ngỡ, và không có chủ kiến, không có mục đích, cha đi lang thang trên đường cái, định bụng hễ gặp việc gì thì làm việc ấy. Nhưng chả gặp việc gì.
Vì thế, khi tới một tỉnh lỵ, cha đã ăn lấn vào cái vốn liếng nhỏ mọn mất gần một nửa. May sao, Trời Phật dun dủi, một hôm cha gặp một thằng bé tay xách cái ấm đất, tay cầm cái bát sành, miệng cất tiếng rao lanh lảnh: “Có ai nước vối nóng, hai đồng một bát không nào?”
“Cha
như chợt trông thấy con đường đi của mình. Thế là cha làm thân với thằng bé, hỏi
nó cách thức bán hàng và ngày hôm sau cha trở nên một bạn đồng nghiệp của nó …”
“Câu
chuyện dài lắm, mà cha lại sợ mệt không đủ sức kể hết đầu đuôi, ngành ngọn cho
các con nghe được. Các con chỉ nên biết rằng cha xuất thân với nghề bán nước vối
rong, và cái đồ vật nuôi sống cha lúc buổi đầu, hơn thế, cái đồ vật đã gây cho
cha cái lưng vốn thứ nhất nó sinh sôi nẩy nở mãi ra cho tới ngày nay là cái ấm
đất quý báu, là cái ấm đất linh thiêng giấu ở trong một bí mật dị kỳ, cái ấm đất
mà cha sắp đem chia cho một trong ba con yêu mến của cha.
Nó
là người bạn hàn vi của cha. Nó là người bạn thân mật của một quãng đời trong sạch
của cha, vì ngày còn phải kiếm ăn với cái ấm đất, cha rất hiền lành, ngay thẳng,
thành thực.
Rồi
sau, một ngày một thêm giàu có, cha cũng một ngày một thêm lừa lọc, gian trá,
ác nghiệt, tàn nhẫn. Nhà cửa đồ sộ, cha đựng lên bằng mồ hôi nước mắt của người
đời; vườn, ruộng mênh mang, đó là những giọt máu đào của người đời mà cha đã
khôn khéo, gian ngoan, chiếm đoạt.
Đến
như cái ấm đất nuôi sống cha thì nó hoàn toàn trong trắng, không hề nhuộm máu,
đựng mồ hôi nước mắt của một ai.”
- Một cái ấm đất?
- Ừ, một cái ấm đất. cái ấm đất ấy hiện cha chôn ở dưới một chân giường cha đương nằm đây. Cha yêu quý nó lắm. Ở đời nếu có vật gì cha yêu quý hơn cả các con thì vật ấy là cái ấm đất của cha. Chính nhờ nó mà ngày nay cha có nhà cửa nguy nga và vườn ruộng hằng trăm mẫu. Các con hãy để cha kể lịch sử nó cho các con nghe.
Đó là tất cả gia tài mà ông để lại cho cha, và túp nhà tre lợp rạ làm nhờ trên một miếng đất công của làng đã sụp sau một trận bão lớn. Nhưng dù nghèo và mới mười hai tuổi đầu cha vẫn không lo chết đói, cha vẫn tin ở sức cha, ở lòng can đảm của cha và hy vọng ở tương lai, tuy tương lai chỉ lờ mờ xa lắc.
“Buổi đầu bỡ ngỡ, và không có chủ kiến, không có mục đích, cha đi lang thang trên đường cái, định bụng hễ gặp việc gì thì làm việc ấy. Nhưng chả gặp việc gì.
Vì thế, khi tới một tỉnh lỵ, cha đã ăn lấn vào cái vốn liếng nhỏ mọn mất gần một nửa. May sao, Trời Phật dun dủi, một hôm cha gặp một thằng bé tay xách cái ấm đất, tay cầm cái bát sành, miệng cất tiếng rao lanh lảnh: “Có ai nước vối nóng, hai đồng một bát không nào?”
- Thưa cha, đời cha thực là một cái gương kiên nhẫn, cần lao, đạo đức cho chúng con và cho khắp mọi người soi. Cái cơ nghiệp hằng vạn của cha, cha đã tay trắng làm nên…
- Không, cha khởi cơ nghiệp bằng cái ấm đất vậy con phải nói: Cha đã được ấm đất dựng lên nhà gạch mới đúng.
- Dạ, con cũng biết thế. Nhưng xây nhà xây cửa, tậu vườn tậu ruộng, há không phải do hai bàn tay trắng với lòng kiên nhẫn, với cái thông minh mẫn tiệp của cha?
Trên đời có biết bao nhiêu đứa trẻ bán nước vối, vậy thử hỏi ngoài cha ra đã một ai làm nên trăm nên nghìn chứ đừng nói làm nên vạn như cha vậy. Vậy thì cái ấm đất chỉ là một vật, một khí cụ mà cha đã dùng để trước là kiếm ăn, sau là làm giàu, cũng như cái cầy, cái bừa, chẳng hạn.
Vâng, thưa cha, cái cầy, cái bừa, con trâu đã giúp cha gây dựng cơ nghiệp to tát, con thiết tưởng ít ra ba thứ ấy cũng phải được xếp ngang hàng với cái ấm đất chứ; Cớ sao cha lại nỡ bên trọng, bên khinh…
- Thôi, con không nên dài lời vô ích, cũng không nên bắt bẻ cha, tội nghiệp. Cha hiểu ý con rồi. Con muốn được chia phần trăm mẫu ruộng và năm chục con trâu chứ gì?
- Quả thực con không xứng đáng được cha chia cho cái ấm đất trong sạch và thiêng liêng của cha. Vậy đem bút mực đây để cha điền tên con vào chỗ phần thứ hai.
- Đáng lẽ cha phải chia cho con phần dinh cơ trong đó có nhà thờ ông cha, mà con lại là con trưởng. Nhưng con đã thích ruộng, thích trâu, thì cha cũng chia ruộng trâu cho con.
Cha không muốn làm phật lòng các con trước khi cha nhắm mắt. Bây giờ đến lượt anh Hai. Anh nghĩ sao? Anh thử trả lời để cha xem anh có xứng đáng được hưởng cái phần gia tài quý giá nhất của cha không?
- Cha đã hỏi, con xin thành thực trình bày. Cái ấm đất mà cha vừa kể cho chúng con biết rõ lịch sự, thực là một cái ấm đất quý, một cái ấm đất phi thường, một cái ấm đất thiêng liêng nữa, như lời cha dạy.
Nó là người bạn buổi thiếu thời của cha, nó là người bạn trong sạch nhất của cha. Bây giờ cha lại muốn để nó làm bạn với một trong ba anh em chúng con, thì con thiết tưởng kẻ nào được phần danh dự ấy phải là người có tài cao, có đức lớn mới xứng đáng. Nay con tự xét mình còn tài hèn, đức mỏng…
- Nghĩa là con không ưng lấy cái ấm đất chứ gì!
- Dạ, xin cha cho phép con nói hết ý nghĩ của con đã. Cha là người có đại tài, đại đức nên đã tay trắng làm nên cơ nghiệp to tát ngày nay. Con nói tay trắng, tuy con vẫn nhớ công cái ấm đất kia.
Con nói thế là vì con cho rằng có tài, đức như cha dù xuất thân làm nghề gì cha cũng tới được cái đích giàu có hằng vạn. Cái ấm đất chỉ may mắn được lọt vào tay cha lúc ban đầu. Nếu cha xuất thân làm thợ ngõa thì chắc cái bay, cái thước nay cũng được cha quý trọng như cái ấm đất. Tóm lại, làm nên giàu có là chỉ nhờ về tài về đức của cha. Nếu con cũng có tài cao, có đức dầy thì với cái ấm đất cha để cho con, con sẽ cũng làm nổi cơ đồ như cha ngày nay.
- Khéo! Khéo! Khéo! Con khéo nói lắm. Như thế kể con cũng có tài đấy, cái tài ngôn ngữ. Nhưng đức của con thì quả còn mỏng mảnh như con nói. Vậy con chưa xứng đáng để cha chia cho cái ấm đất của cha. Còn anh Ba, anh Ba nghĩ sao? Thử nói cho cha nghe nào.
- Thưa cha, cái ấm đất của cha thực là một gia bảo của nhà ta, nếu cha giao nó cho con, thì con xin cam đoan với cha rằng con sẽ chăm nom giữ gìn nó, con sẽ là người bạn suốt đời của nó.
- Con có đủ tài đức để giữ nó không, để giữ nó mãi mãi không?
- Thưa cha, con không dám tự cao cho rằng con có đủ tài, đủ đức, và con cũng không biết con có xứng đáng được cha giao cho thứ bảo vật yêu quý của cha không, nhưng nếu cha xét thấy con xứng đáng mà ban cho thì con xin vui lòng nhận.
- Con vui lòng?
- Vâng, con vui lòng.
- Nhưng con phải biết phần gia tài ấy chỉ có một cái ấm đất với mười quan tiền để mua nồi, mua vối, mua củi…
- Thưa cha, ngày xưa cha xuất thân chỉ có một cái ấm đất với ngót một quan tiền.
- Con sẽ phải đi bán vối rong, con sẽ phải cất cao giọng rao suốt ngày nầy sang ngày khác: “Có ai uống nước vối nóng không?”.
- Cha làm được thì con cũng xin cố làm được.
- Con sẽ ngủ nhiều đêm ở vệ hè, ở trong quán chợ.
- Người ta ngủ như thế được thì con cũng ngủ như thế được.
- Hai anh con được một người hai trăm mẫu ruộng, và một người cái dinh cơ đồ sộ này, mà con chỉ được mỗi một cái ấm đất, con không suy bì?
- Thưa cha, hai trăm mẫu ruộng, một nơi dinh cơ rộng rãi với một cái ấm đất, hơn kém nhau thế nào khó lòng mà so sánh được. Nhưng có một điều con tin chắc, là cha đã chia ra làm ba phần bằng nhau, thì tất ba phần ấy phải bằng nhau, không hơn không kém.
Nhận phần hai trăm mẫu ruộng, hay phần dinh cơ, hay phần một cái ấm đất, con tin chắc rằng cũng thế mà thôi, nhất con lại được nghe cha ca tụng cái quãng đời bán nước vối của cha là trong sạch, là sung sướng, và mạt sát cái đời làm chủ nhân mấy tòa nhà và hai trăm mẫu ruộng mà cha cho là một đời lừa lọc, gian trá, ác nghiệt, tàn nhẫn.
Thưa cha, nếu kiếm ăn với một ấm nước vối là sống và tiêu pha phung phí trong tòa nhà này cũng chỉ là sống thì can gì không chọn lấy cái sống trong sạch và sung sướng kia mà lại đi chuốc lấy cái sống ô trọc, khổ sở này.
Thưa cha, con quả quyết xin cha ban cho con cái ấm đất, nếu cha xét con thực xứng đáng được lĩnh phần gia tài quý báu ấy.
Quả thực ngày nay cha thấy rõ rằng con khá hơn hai anh con, và quả thực ngày nay con được cha chia cho phần gia tài đích đáng nhất. Cha cứ tưởng phần gia tài ấy không ai được nhận và cha sẽ phải làm lại chúc thư. Nhưng bây giờ thì sẽ yên tâm mà nhắm mắt từ biệt các con.
Vừa xong việc tang ma, anh bắt đầu bước vào nghề mới, cái nghề bán nước vối rong.
Anh bỏ ra ba quan thuê một cái quán tranh ở bên chợ. Với năm quan anh mua lá vối và các đồ dung để nấu nước. Rồi sáng sáng dậy thực sớm, dậy trước cả tiếng gà gáy thứ nhất, anh nấu nước rót vào cái ấm đất ra đi và cất tiếng rao lanh lảnh:
Đi khỏi một quãng, các bà đem chuyện anh Ba ra kể với
nhau cho vui trên con đường xa. Một bà bảo:
- Anh Ba là con cụ Bá làng tôi. Cụ giàu nứt đá đổ vách mà sao cụ vừa mất được mươi hôm anh ấy đã phải đi bán nước rong.
Bà khác đáp :
- Hai người anh cũng tệ ! Nào nhà cửa linh đình, nào ruộng nương hằng trăm mẫu mà nỡ để em đi bán nước vối.
Bà thứ ba nói :
- Nghe đâu hai người anh có xin chia của cho em, nhưng anh Ba anh ấy nhất định không nhận. Anh ấy bảo ngày xưa cụ Bá xuất thân với cái nghề bán nước vối rong thì nay anh ấy cũng cứ theo cái nghề ấy.
- Dễ thường anh ấy điên ?
- Chẳng điên thì cũng lẩn thẩn. Thiên hạ lại có người chê của thì cũng lạ !
Trong khi các bà khác kháo chuyện anh thì Ba đương rẽ
xuống ruộng bán nước vối cho một bọn thợ gặt. Nghe tiếng rao trong trẻo, họ đã
ngừng tay cắt lúa và cất tiếng gọi :
- Anh Ba, đem nước xuống đây bán cho chúng tôi, nước vối của anh chúng tôi uống hôm qua,hôm nay vẫn còn nhớ vị thơm ngọt. Chúng tôi đương mong ngóng anh đây !
Chẳng mấy lúc ấm nước đã cạn. Ba chạy về nhà rót đầy ấm
khác rồi lại đi bán rong cho khách qua đường, mãi xế chiều mới trở về nơi quán
tranh thổi cơm ăn.
Cơm xong, Ba nghêu ngao hát chèo, hát trống quân chơi
rồi đi ngủ để sáng hôm sau lại dậy sớm nấu nước vối đi bán.
Và anh tự cho là sung sướng, tự cho là đời anh đầy đủ. Phải, anh còn thiếu một thứ gì ? Anh có nhà để ở. Có một nghề “trong sạch” để kiếm ăn. Anh không lo nghĩ, không phiền muộn, băn khoăn.
- Anh Ba là con cụ Bá làng tôi. Cụ giàu nứt đá đổ vách mà sao cụ vừa mất được mươi hôm anh ấy đã phải đi bán nước rong.
- Hai người anh cũng tệ ! Nào nhà cửa linh đình, nào ruộng nương hằng trăm mẫu mà nỡ để em đi bán nước vối.
- Nghe đâu hai người anh có xin chia của cho em, nhưng anh Ba anh ấy nhất định không nhận. Anh ấy bảo ngày xưa cụ Bá xuất thân với cái nghề bán nước vối rong thì nay anh ấy cũng cứ theo cái nghề ấy.
- Dễ thường anh ấy điên ?
- Chẳng điên thì cũng lẩn thẩn. Thiên hạ lại có người chê của thì cũng lạ !
- Anh Ba, đem nước xuống đây bán cho chúng tôi, nước vối của anh chúng tôi uống hôm qua,hôm nay vẫn còn nhớ vị thơm ngọt. Chúng tôi đương mong ngóng anh đây !
Và anh tự cho là sung sướng, tự cho là đời anh đầy đủ. Phải, anh còn thiếu một thứ gì ? Anh có nhà để ở. Có một nghề “trong sạch” để kiếm ăn. Anh không lo nghĩ, không phiền muộn, băn khoăn.
Ngày ngày anh kiếm không những đủ ăn, mà còn để ra được
chút đỉnh. Số tiền ấy anh sẽ dùng vào việc thuốc thang khi không may anh xảy ra
đau ốm. Nhưng anh chắc chắn rằng không khi nào anh sẽ đau ốm được. Anh ăn uống
có điều độ, ngủ thức có điều độ.
Công việc làm không những anh cho là không vất vả mà lại
còn có hứng thú nữa. Khi xưa ở nhà với cha, không bao giờ anh để ý ngắm cảnh đẹp,
không bao giờ anh để tai nghe chim hót.
Ngày nay thì anh coi như đó là những vật sở hữu của
anh. Buổi sáng tiếng chim chích chòe làm cho lòng anh thư thái; Buổi chiều tiếng
chim sơn ca vừa hót vừa bay thẳng vút lên trời xanh làm cho trí anh cao rộng.
Rồi thân thể anh nở nang ra dưới gió mát, dưới nắng
trong, dưới làm không khí thênh thang nơi đồng áng. Cả mưa dầm gió lạnh cũng
không làm cho thân anh hao tổn, trái lại nhờ thế mà bắp thịt anh rắn chắc lại,
mà lòng can đảm, chí phấn đấu của anh tăng mãi lên. Và anh càng thấy anh sung
sướng.
Một buổi sáng, Ba dậy sớm nấu nước vối xong rót vào ấm
đất ra đường rao bán. Nhưng hôm ấy không phải là ngày phiên chợ nên anh phải đi
một quãng đường dài để đến bán nước cho bọn thợ cấy ở các thửa ruộng xa.
Gần tới nơi, anh gặp một ông lão râu tóc bạc phơ ngồi
mệt lả ở bên vệ đường. Ông lão uể oải giơ tay vẫy anh, như không còn đủ sức để
cất tiếng gọi. Ba lại gần hỏi :
- Cụ xơi nước ?
Ông lão gật đầu. Rồi Ba chưa kịp rót nước ra bát, ông
lão đã giựt lấy cái ấm đất và ngậm vòi uống ừng ực. Ba vội kêu :
- Ấy nước nóng, khéo không cụ bỏng mồm đấy.
Nhưng lạ chưa. Không những ông lão không bỏng mồm mà
ông còn có vẻ khoan khoái nữa. Một lát, ông đưa cái ấm đất trả lại Ba. Anh cầm
thấy nhẹ bỗng, ghé mắt nhòm vào trong thấy ấm ráo hoảnh. Ông lão mỉm cười nói :
- Lão uống mất nhiều phải không ? Lão khát quá đi mất thôi. Không có ấm nước vối của anh thì không khéo lão đã chết rồi. Cám ơn anh nhé. Thôi, lão đi đây, bây giờ khỏi khát rồi thì lão đi xa đến đâu cũng được.
Dứt lới, ông lão đứng lên đi thẳng.
Ba không nói gì, chỉ vội vàng chạy một mạch về nhà rót đầy ấm nước khác đem đi bán.
Hôm sau cũng vào lúc ấy và ở chỗ ấy. Ba gặp một bà lão
nằm rên khừ khừ. Ba ghé lại hỏi thăm :
- Cụ làm sao thế ?
Bà lão đáp :
- Già khát lắm mà không có tiền uống nước. Không khéo già chết khát mất thôi.
- Thưa cụ, có nước vối nóng đây, xin mời cụ xơi, Bao giờ cụ có tiền cụ trả cũng được.
- Nhưng già làm gì có tiền, già nghèo lắm.
- Mời cụ cứ xơi, cháu xin biếu không cụ một bát.
- Một bát thì thấm thía vào đâu !
- Vậy mời cụ muốn uống bao nhiêu tùy ý.
- Thế à ?
Bà lão vui sướng vồ lấy cái ấm đất, nhưng tay bà run lẩy
bẩy đánh rơi ấm xuống cỏ, nước đổ lênh láng.
- Thôi, thế này thì khổ già rồi. Đổ không còn lại một giọt nào nữa.
Ba không lộ vẻ thất vọng, không thốt một lời gắt gỏng
hay phàn nàn. Anh chỉ ôn tồn bảo bà lão:
- Cụ chịu khó ngồi đấy chờ cháu một lát, cháu về nhà lấy ấm nước khác đem đến mời cụ xơi.
Rồi anh xách cái ấm đất cắm đầu chạy thực mau về nơi
quán tranh, trong lòng chỉ áy náy lo rằng nếu mình chậm trễ thì bà lão kia sẽ
chết khát mất. Lúc ra tới chỗ cũ thì quả bà lão, mệt lả vì khát, đương nằm phục
bên đường. Anh vừa thở hổn hển vừa gọi:
- Cụ ơi, nước đây rồi, cụ dậy mà uống.
Bà lão vội vàng ngồi dậy nói:
- Ồ! Thế thì tốt quá!
Rồi choàng tay ra vồ lấy cái ấm đất. Nhưng trong lúc hấp
tấp, bà ta lại đánh đổ hết nước trong ấm.
Lần thứ hai, Ba xách ấm chạy về nhà. Không những anh
không bực tức và oán trách bà lão, mà anh còn cố chạy mau hơn lần trước, vì sợ
bà lão đã khát quá không khéo lần này anh sẽ không kịp cứu sống.
Nhưng Ba cứu sống được bà lão, vì lần cuối cùng này
anh rất cẩn thận, cầm ấm và bát rót nước cho bà lão. Bà uống luôn ba bát, và mặt
bà tỉnh táo hẳn lên. Bà mỉm cười nói:
- Anh tốt bụng lắm, vừa thương người vừa nhẫn nại.
Thương người già yếu thì có người bằng anh đấy, nhưng nhẫn nại như anh thì có lẽ
không một ai nữa. Nước của anh đổ, anh đã không tức giận, không tỏ lòng tiếc, lại
còn hấp tấp chạy về nhà lấy ấm nước khác để cho người đánh đổ nước của anh uống;
anh thực là một người hiếm có và giống hệt cha anh thửa còn hàn vi….
Ba kinh ngạc hỏi:
- Thưa cụ, cụ biết cha cháu từ thời cha cháu hàn vi?
Bà lão cười đáp:
- Phải, tôi biết lắm. Vì chính tôi đã giúp cha anh trở nên giàu có. Tôi thấy cha anh là người phúc hậu nên tôi thương, – tôi nói ngày xưa cơ, chứ về sau cha anh đã thay đổi hẳn, không còn dễ dàng và có lòng tốt thương người nữa. Cho hay đó vẫn là lẽ tự nhiên, khi người ta giàu có thì người ta dễ thay đổi tính tình…
- Vậy thưa cụ, cụ là ai ?
- Tôi là linh hồn cái ấm đất này. Tôi là thần Ấm Đất, và cũng như cha anh ngày xưa, nhờ phép tôi, anh sẽ trở nên giàu có ngay lập tức. Anh đã hiểu vì sao cha anh chia cho anh cái ấm đất này chưa ?
- Cụ xơi nước ?
- Ấy nước nóng, khéo không cụ bỏng mồm đấy.
- Lão uống mất nhiều phải không ? Lão khát quá đi mất thôi. Không có ấm nước vối của anh thì không khéo lão đã chết rồi. Cám ơn anh nhé. Thôi, lão đi đây, bây giờ khỏi khát rồi thì lão đi xa đến đâu cũng được.
Ba không nói gì, chỉ vội vàng chạy một mạch về nhà rót đầy ấm nước khác đem đi bán.
- Cụ làm sao thế ?
- Già khát lắm mà không có tiền uống nước. Không khéo già chết khát mất thôi.
- Thưa cụ, có nước vối nóng đây, xin mời cụ xơi, Bao giờ cụ có tiền cụ trả cũng được.
- Nhưng già làm gì có tiền, già nghèo lắm.
- Mời cụ cứ xơi, cháu xin biếu không cụ một bát.
- Một bát thì thấm thía vào đâu !
- Vậy mời cụ muốn uống bao nhiêu tùy ý.
- Thế à ?
- Thôi, thế này thì khổ già rồi. Đổ không còn lại một giọt nào nữa.
- Cụ chịu khó ngồi đấy chờ cháu một lát, cháu về nhà lấy ấm nước khác đem đến mời cụ xơi.
- Cụ ơi, nước đây rồi, cụ dậy mà uống.
- Ồ! Thế thì tốt quá!
- Thưa cụ, cụ biết cha cháu từ thời cha cháu hàn vi?
- Phải, tôi biết lắm. Vì chính tôi đã giúp cha anh trở nên giàu có. Tôi thấy cha anh là người phúc hậu nên tôi thương, – tôi nói ngày xưa cơ, chứ về sau cha anh đã thay đổi hẳn, không còn dễ dàng và có lòng tốt thương người nữa. Cho hay đó vẫn là lẽ tự nhiên, khi người ta giàu có thì người ta dễ thay đổi tính tình…
- Vậy thưa cụ, cụ là ai ?
- Tôi là linh hồn cái ấm đất này. Tôi là thần Ấm Đất, và cũng như cha anh ngày xưa, nhờ phép tôi, anh sẽ trở nên giàu có ngay lập tức. Anh đã hiểu vì sao cha anh chia cho anh cái ấm đất này chưa ?
- Cha anh chia cho anh phần gia tài này còn vì một lẽ nữa. Là nếu cái ấm đất có lọt vào tay hai người con lớn của cha anh thì họ cũng chẳng biết, chẳng thèm dùng đến. Mà có dùng đến thì cũng chẳng được tôi hóa phép giúp đỡ, vì tôi rất ghét cái tính ngạo mạn và huênh hoang của chúng. Cha anh biết chỉ có anh mới cảm động nổi tôi. Quả thực anh đã được lòng tôi, vì tôi đã hiện lên đây để giúp đỡ anh.
- Giúp đỡ cháu ?
- Phải, giúp đỡ anh. Nhưng trước khi hóa phép, tôi hỏi anh câu này : “Anh muốn giàu có như cha anh và suốt đời lo nghĩ, băn khoăn, cặm cụi, mong ước mỗi ngày một giàu có mãi hơn lên, phải, anh thích cái đời giàu có và không bình tĩnh một chút nào ấy hay cái đời đủ ăn và luôn luôn thư thái, không làm phiền ai và không bị ai làm phiền mình. Tóm lại, anh thích một đời giàu có hay một đời sung sướng ?”
Anh không ngần ngừ nữa, quả quyết trả lời :
- Cháu chỉ ao ước được sung sướng, suốt đời sung sướng.
- Nghĩa là anh không ham giàu ?
- Không.
- Anh không thích sang ?
- Không.
- Anh không thích ở nhà lầu ? Anh phải biết ở nhà lầu, cao ráo, sạch sẽ, mát mẻ.
- Thưa cụ ở nhà tranh cũng có thể cao ráo, sạch sẽ, mát mẻ được.
- Anh không thích ăn sơn hào, hải vị ? Sơn hào, hải vị ngon lắm chứ ?
- Thưa cụ, rau muống, đậu phụ chấm tương cũng ngon lắm mà lại lành ?
- Anh không thích được ngắm những thửa ruộng thẳng cánh cò bay của mình.
- Thưa cụ, cháu thường được ngắm nhiều hơn thế, cháu thường được ngắm những cánh đồng lúa chạy thẳng tắp đến tận chân trời.
- Nhưng đó không phải ruộng của anh.
- Thưa cụ như thế càng hay, vì cháu được ngắm cái đẹp mà không phải chăm nom săn sóc tới.
- Nhưng thóc sẽ về tay người khác.
- Nhưng người ấy có ăn được hết số thóc đâu ? Cháu không có một tấc ruộng nào mà hằng ngày vẫn đủ no. Tiền bán nước vối cũng đủ nuôi sống cháu rồi.
- Vậy anh muốn gì ? Anh muốn tôi giúp anh như thế nào, vì thế nào tôi cũng phải giúp anh. Tôi là bạn thân của cha anh thửa xưa, cha anh đã phó thác anh cho tôi, chẳng lẽ tôi lại để anh nghèo đói, khổ sở, chẳng hóa ra tôi phụ lòng tin cậy của cha anh lắm ư?
- Thưa cụ, quả cháu không khổ sở. Nếu cụ làm cho cháu cứ được vui vẻ, sung sướng suốt đời như ngày hôm nay thì cháu cám ơn cụ lắm.
- Anh sẽ vui vẻ, sung sướng suốt đời.
Rồi bà biến đi.
Đó là pháp thuật của thần Ấm Đất. Thần đã chuẩn lời
mong ước của Ba: Suốt đời sung sướng.
Và Ba sẽ suốt đời sung sướng với cái ấm đất linh thiêng bao giờ cũng đầy nước vối thơm ngọt.
Ba sẽ sung sướng được sống một đời trong sạch.
Ba sẽ sung sướng với sự giúp đỡ kẻ nghèo, vì không cần giàu có, Ba cũng có thể giúp đỡ được kẻ nghèo bằng một bát nước vối nóng thơm, ngọt.
Ba sẽ sung sướng vì một đời bình dị sẽ không bao giờ thay đổi lòng Ba như một đời giàu có: Ba sẽ mãi mãi giữ được nguyên vẹn lòng tốt của mình.
Không có lòng tốt thì người ta sung sướng sao được.
Ba sẽ suốt đời sung sướng.
KHÁI HƯNG
Và Ba sẽ suốt đời sung sướng với cái ấm đất linh thiêng bao giờ cũng đầy nước vối thơm ngọt.
Ba sẽ sung sướng được sống một đời trong sạch.
Ba sẽ sung sướng với sự giúp đỡ kẻ nghèo, vì không cần giàu có, Ba cũng có thể giúp đỡ được kẻ nghèo bằng một bát nước vối nóng thơm, ngọt.
Ba sẽ sung sướng vì một đời bình dị sẽ không bao giờ thay đổi lòng Ba như một đời giàu có: Ba sẽ mãi mãi giữ được nguyên vẹn lòng tốt của mình.
Ba sẽ suốt đời sung sướng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét