1. MỞ BÀI:
Chuyện tình Huyền Trân Công Chúa đã được nhắc tới nhiều trong dân gian Việt Nam, dưới nhiều góc độ khác nhau. Người thì ca ngợi Công Chúa đã thay mặt triều đình nhà Trần, thực hiện công tác chính trị, ngoại giao, tạo hoà bình giữa hai nước, đã thường xuyên tranh chấp lâu đời với nhau. Hơn nữa, cuộc hôn nhân đã mang lại cho Đại Việt hai châu Ô và Lý (Rí), xem như mở rộng bờ cõi. Công chúa đã thực hiện một sứ mạng hoà bình. Cũng có người tiếc cho Công Chúa xinh đẹp, lá ngọc cành vàng, phải xa quê hương trao thân gởi phận cho người chồng thuộc sắc tộc lạc hậu, “man di”, trong ý nghĩa của những câu: “Tiếc thay cây quế giữa rừng, để cho thằng Mán, thằng Mường nó leo” hoặc tiếc cho “cái bông hoa lài cắm bãi cứt trâu”.
Cuộc đời của Huyền Trân Công Chúa là một chuổi bất hạnh. Đã trở thành goá phụ ở tuổi ngoài hai mươi, và sau đó xuống tóc đi tu cho hết cuộc đời trần thế.
2*. NHÀ TRẦN
Nhà Trần trị vì 175 năm với 13 hoàng đế. Khởi đầu nhà Trần là do Trần Thủ Độ bắt ép vua cuối đời nhà Lý, là Lý Huệ Tông, phải đi tu, và nhường ngôi lại cho con gái là công chúa Lý Chiêu Hoàng lúc 7 tuổi.
Trần Thủ Độ làm quan dưới triều nhà Lý, mà vị vua lập nên cơ nghiệp nhà Lý là Lý Công Uẩn, tức Lý Thái Tổ (Dời đô về Thăng Long). Trần Thủ Độ là người có nhiều mưu mô, ông đưa người cháu là Trần Cảnh, 8 tuổi, vào phục vụ cho Lý Chiêu Hoàng, rồi dàn xếp để Lý Chiêu Hoàng lấy Trần Cảnh, và nhường ngôi lại cho chồng, là Trần Thái Tông vào năm 1225.
Trần Cảnh lên ngôi là Trần Thái Tông, con rể của Lý Huệ Tông. Trần Cảnh còn nhỏ nên tất cả quyền bính đều nằm trong tay Thái sư Trần Thủ Độ.
Nhà Trần hùng mạnh nhờ những tướng tài như: Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Toản…
Nhà Trần đã ba lần đánh tan quân Mông Cổ nhà Nguyên, vào những năm: 1258, 1285 và 1287, ở nhiều mặt trận như: Thăng Long, Vạn Kiếp, Hàm Tử, Tây Kết…Ở trận Tây Kết, tướng Tàu là Toa Đô bị chém đầu.
Năm 1287, Trần Hưng Đạo đánh tan quân Nguyên ở sông Bạch Đằng, bắt sống Nguyên soái Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp…Thái tử Thoát Hoan, con trai của Hốt Tất Liệt, phải chui vào ống đồng cho binh lính khiêng chạy về nước.
Trần Thủ Độ đoạt ngôi nhà Lý bằng hôn nhân “ngoại thích” đối với nhà Lý, cho nên Trần Thủ Độ chủ trương cho người trong họ kết hôn với nhau, nội tộc, để tránh cái hoạ “ngoại thích”, tức là người ngoài dòng họ. Đã có hơn 30 cuộc hôn nhân “nội thích” trong gia tộc nhà Trần được ghi nhận. Đó là hôn nhân giữa con chú với con bác, con cô với con cậu, con dì với nhau.
Những vị vua nhà Trần gồm có: Trần Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông, Minh Tông, Dụ Tông, Hiếu Tông, Nghệ Tông, Duệ Tông, Thuận Tông, Phế Đế, Thiếu Đế.
Những vị vua cuối đời nhà Trần bỏ bê chính sự, cụ thể nhất là Trần Dụ Tông, ham mê tửu sắc, thích ca hát, thích cờ bạc. Cho xây cung điện, tạo ra sưu cao, thuế nặng làm cho người dân đói khổ, ta thán. Trong nước thì giặc giã nổi lên khắp nơi, trong khi đó, trong triều đình thì bọn gian thần kéo bè đảng, lộng hành.
Chu Văn An là vị quan thanh liêm, trung trực, đã dâng “Thất trảm sớ” đề nghị trị tội 7 tên tham quan.
Vì mãi chơi bời nên nhà vua sức khỏe kém, mất ở 33 tuổi, mà không có con nối dòng, đến nỗi truyền ngôi cho Trần Nhật Lễ, con của một đào hát, được người anh của ông nhận làm con nuôi.
Năm 1351, Ngự y Trâu Canh, gốc Hoa, thấy Dụ Tông bị liệt dương, bèn dâng phương thuốc, nói rằng giết đứa bé con trai, lấy mật hòa với dương khởi thạch mà uống, và phải thông dâm với chị hay em ruột của mình, thì sẽ hiệu nghiệm. Dụ Tông làm theo, thông dâm với chị ruột là Thiên Ninh công chúa Ngọc Tha, “quả nhiên công hiệu”. Trâu Canh từ đấy được yêu quý hơn, được ngày đêm luôn ở trong hậu cung hầu hạ thuốc thang, Trâu Canh nhân đó liền thông dâm với các cung nữ.
Cuối cùng, nhà Trần cũng bị mất vào trong tay “ngoại thích” là Hồ Quý Ly.
Năm 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi của cháu ngoại là Trần Thiếu Đế, tự lên làm vua lấy quốc hiệu là Đại Ngu, lập nên nhà Hồ.
Năm 1406, nhà Minh đem quân sang xâm chiếm Đại Ngu. Do không được lòng dân, binh sĩ bất mãn, nên nhà Hồ nhanh chóng thất bại. Năm 1407, Hồ Quý Ly và con là Hồ Hán Thương bị quân Minh bắt, giải về Tàu. Nhà Hồ làm vua được 7 năm. Nhà Minh cai trị nước ta, đổi tên lại là Giao Chỉ.
3*. THÁI THƯỢNG HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG ĐI THĂM CHIÊM THÀNH
Vua Trần Nhân Tông, sau khi truyền ngôi cho con là Trần Anh Tông, đã rời triều chính, còn giữ chức Thái thượng hoàng, ông vào ẩn tu trong núi Yên Tử (Quảng Yên).
Ngài là con trưởng của Trần Thánh Tông, sinh ngày 7 tháng 12 năm Mậu Ngọ (1258). Ngài tuy ở địa vị sang cả, mà trong tâm thì hâm mộ Thiền Tông từ thuở nhỏ. Ngài là người sáng lập ra dòng Thiền Tông Trúc Lâm, dòng Thiền tông lớn nhất tại Việt Nam. Người dân gọi ông là Phật hoàng Trần Nhân Tông.
Vào tháng 2 năm Tân Sửu (1301), theo lời mời của vua Chiêm Thành, Thái thượng hoàng tháp tùng sứ bộ Chiêm Thành, đến thăm nước nầy. Đi thuyền buồm đến Chiêm Thành mất nửa tháng.
Khi tiếp kiến vua Chế Mân, ông mặc áo nâu sồng, tay bưng bình bát, được vua Chiêm trân trọng tiếp đón, và đích thân hướng dẫn đi thăm viếng các đền chùa, cố đô, cổ miếu, cùng các danh lam thắng cảnh của người Chàm. Và cũng đàm đạo về tôn giáo.
Chín tháng ở Chiêm Thành trôi qua. Trong buổi tiễn hành, Thái thượng hoàng hứa gả con gái là Huyền Trân công chúa cho vua Chiêm, để nối tình thông gia giữa hai nước, vốn đã có những sự tranh chấp lâu đời.
Năm 1305, Chế Mân sai sứ là Chế Bồng Đài và hơn 100 người, đem vàng bạc, hương liệu quý hiếm, đến dâng vua Đại Việt, để xin cưới Huyền Trân công chúa. Triều đình không bằng lòng, chỉ có Văn túc Vương Đạo Tái và Trần Khắc Chung tán thành.
Sau đó, Chế Mân dâng châu Ô và châu Rí (Lý) làm sính lễ, và hứa phong tân nương
Huyền Trân làm hoàng hậu nước Chiêm.
Châu Ô, từ Đèo Lao Bảo đến sông Thạch Hản, nay là Quảng Trị. Châu Lý, ngày nay là Thừa Thiên-Huế.
Tháng 6 năm Bính Ngọ (1306) Huyền Trân lên đường sang Chiêm quốc. Nhà Trần tiếp nhận 2 châu Ô, Lý và đổi tên thành châu Hoá và châu Thuận.
4*. HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA
Huyền Trân là con gái của Trần Nhân Tông, là em của vua Trần Anh Tông. Huyền Trân công chúa là cháu ngoại của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Mẹ của bà là con của Trần Hưng Đạo.
Bà sinh năm 1287. Năm 1301, Thái thượng hoàng có hứa gả Huyền Trân cho vua Chế Mân.
Năm 1306, Chế Mân dâng hai châu Ô, Lý (Rí) làm của hồi môn, cho nên Trần Anh Tông đồng ý gả Huyền Trân cho Chế Mân. Huyền Trân được phong làm hoàng hậu Paramecvari. Một năm sau đó, vào tháng 5 năm 1307, Chế Mân băng hà.
Tháng 8 năm 1308, Huyền Trân về nước, và xuất gia đầu Phật ở núi Trâu Sơn (Bắc Ninh).
Bà mất ngày mồng 9 tháng giêng năm Canh Thìn (1340), 53 tuổi.
5*. CHẾ MÂN VÀ NƯỚC CHIÊM THÀNH
Chế Mân, hay Jaya Sinhavarman III, là vua thứ 34 của Vương quốc Chiêm Thành, ở vào thế kỷ 14.
Chế Mân có tài thao lược, vào năm 1282, khi Hốt Tất Liệt đem 500,000 quân Mông Cổ sang tấn công đánh Đại Việt và đồng thời đem 5000 quân, 100 hải thuyền và 250 chiến thuyền, tấn công đánh Chiêm Thành. (1282-1285)
Chế Mân chỉ huy 20,000 quân chận đường đánh tan quân nhà Nguyên trên đường biển. Trận đánh có sự yểm trợ của nước Đại Việt trên đường bộ.
Là anh hùng dân tộc, ông lên ngôi lấy hiệu là Jaya Sinhavarman III, người Việt Nam gọi là Chế Mân.
Chế Mân có vợ chính thức là hoàng hậu Tapasi, người Java (Indonesia).
Năm 1305, vua Chế Mân sai sứ Chế Bồng Đài cùng hơn 100 người, đem vàng bạc, châu báu cùng với những cống phẩm làm sính lễ, sang dạm hỏi, ngõ ý về lời hứa của Thái Thượng hoàng Trần Nhân Tông. Sau khi thảo luận cùng với triều thần, đến tháng 6 năm Bính Ngọ 1306, Huyền Trân công chúa lên thuyền sang Chiêm Quốc nên duyên cùng với vua Chế Mân.
5.2. Nước Chiêm Thành bị xóa tên trên bản đồ thế giới
Nói thêm về nước Chiêm Thành.
Các vua cuối đời Trần ham mê tửu sắc, chú tâm hưởng lạc. Triều đình chia bè phái, tranh nhau tham ô. Không ai lo mở mang, bảo vệ đất nước, nên vua Chiêm Thành, thời đó là Chế Bồng Nga, đã ba lần đánh chiếm Thăng Long. Cướp của, giết người, bắt phụ nữ đem về nước. Các vua nhà Trần ôm của cải chạy trốn.
Năm 1390, khi giao chiến với quân Đại Việt, vua Chiêm là Chế Bồng Nga bị giết. Chế Bồng Nga chết, đạo quân thiện chiến cũng chết theo, mở đường cho Đại Việt xâm lăng Chiêm Quốc. Vua Chiêm là Trà Toàn phải cầu viện quân nhà Minh tiếp cứu.
Tới đời vua Lê Thánh Tông, (1460-1497), nhà vua thân chinh ra mặt trận đánh Chiêm Thành. Quân Đại Việt đã giết 60,000 binh lính và người dân. Bắt sống Trà Toàn và hơn 30,000 tù nhân đem về làm nô lệ. Kết thúc triều đại vương quốc thứ 14, Nước Chàm xem như bị xóa tên trên bản đồ thế giới.
6*. HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA VỀ CHIÊM QUỐC
Ngày cưới, các quan văn võ nhà Trần, cùng dân chúng tiễn đưa Huyền Trân hơn 1000 người. Dân chúng đi tiễn đông nghẹt, tiếc thương nàng công chúa Đại Việt, lấy người dị tộc, khác biệt về văn hóa, phong tục, tập quán, ngôn ngữ, chắc gì được hạnh phúc?. Nhưng công chúa nhận thức được rằng, đó là lợi ích của dân tộc, chấm dứt chiến tranh, mang hòa bình cho cả hai nước, nên nàng sẵn sàng ra đi. Hơn nữa, thực hiện lời hứa của phụ hoàng.
Huyền Trân rạng ngời trong ngày cưới, bên ngoài nhiều lời xì xầm, bàn tán. Cho đến nay, người đời sau vẫn nhớ Huyền Trân Công Chúa, đã có công mở mang bờ cõi của Đại Việt về phía Nam.
Hôn lễ của Huyền Trân và Chế Mân, được tổ chức rất linh đình tại Chiêm Quốc. Nhà vua ra tận cửa biển đón Huyền Trân Công Chúa. Chế Mân mặc áo bào trắng, quần che cũng màu trắng, ngoài khoác áo giáp đan bằng sợi vàng, chân mang hia đen thêu chim thần Garuda, ngang ngực thắt đai ngọc, lủng lẳng bên hông thanh bảo kiếm, khắc hình đầu thần Ganesa, đầu voi mình người, vỏ kiếm bằng vàng, chuôi kiếm bằng ngà voi, nạm hồng ngọc, đầu đội mũ bằng vàng, chóp nhọn, trên đỉnh nạm một viên ngọc quý to bằng trứng chim sẻ luôn tỏa ánh sáng 7 màu.
7*. CUỘC GIẢI CỨU HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA
7.1. Dự định giải cứu Huyền Trân công chúa
Chỉ mới làm vợ của Chế Mân trong 11 tháng, Huyền Trân công chúa trở thành góa phụ ở tuổi 25. Chế Mân chết lúc 50 tuổi, trong một trường hợp thật “vô duyên”. Đó là gió lốc làm gãy một cành cây to trong vườn, rơi xuống trúng ngay vào gáy, khi ông đang tắm nắng để trị bịnh ngoài da. Đó là bịnh hắc lào (Bịnh lác đồng tiền). Bịnh do một thứ nấm gây ra, làm ngứa ngáy nên phải gãi. Có hai thứ lác, lác ướt và lác khô, rất hay lây.
Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại như sau: “Theo tục lệ Chiêm Thành, hễ vua mất thì hoàng hậu phải lên giàn hỏa thiêu để chết theo. Vua (Trần Anh Tông) biết thế, sợ công chúa bị hại, bèn sai bọn Khắc Chung, mượn cớ sang viếng tang, rồi nói, nếu hỏa táng công chúa thì việc làm chay không có người chủ trương, chi bằng, ra bờ biển chiêu hồn ở chốn ven trời, đón linh hồn Chế Mân, cùng về rồi hãy lên giàn hỏa thiêu. Người Chiêm Thành nghe theo, Khắc Chung dùng thuyền nhẹ, cướp lấy công chúa đem về…”
7.2. Việc giải cứu có nhiều nghi vấn
Vì không có sử liệu chính xác, đáng tin cậy, nên việc giải cứu Huyền Trân công chúa được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Đầy nhiều nghi vấn. Chế Mân chết vào tháng 6 năm 1307, nhưng tới tháng 10, triều đình Nhà Trần mới nhận được tin báo của Chiêm Thành. Sau 4 tháng, Trần Khắc Chung mới lên đường sang Chiêm quốc, và khi đó Huyền Trân vẫn còn sống. Nghĩa là không có việc lên giàn hỏa táng. Theo tục lệ, thì xác Chế Mân phải chôn, hoặc hỏa táng trong vòng 7 ngày sau khi chết, vì ở thời điểm đó không có phương tiện giữ xác, chống sình thúi. Việc hỏa thiêu hoàng hậu cũng được hỏa táng ngay sau đó.
1). Trần Khắc Chung giả dạng Tàu Ô bắt cóc công chúa Huyền Trân.
Vua Trần Anh Tông bàn kỹ với Phạm Ngũ Lão và giao cho Trần Khắc Chung thi hành. Trần Khắc Chung và Đặng Thiệu lên đường vào Đồ Bàn, dâng lễ phúng điếu vua Chăm, rồi tìm cách đưa công chúa về nước để tránh bị lên giàn hỏa. Trần Khắc Chung tâu với tân vương là Chế A Đà Ba, xin cho hoàng hậu làm lễ cầu hồn Chế Mân. Lễ sẽ đặt ở bờ biển thanh vắng, vào lúc hoàng hôn vắng lặng, thì vong hồn Chế Mân mới dễ trở về. Rồi ngay sau đó hỏa táng hoàng hậu Huyền Trân.
“Nếu công chúa hỏa tang thì việc làm chay không có người chủ trương, chi bằng ra bờ biển chiêu hồn, đón linh hồn nhà vua Chế Mân cùng về rồi sẽ hỏa thiêu”
Thuyền pháp sư bị đánh chìm, 5 sư tăng bị nước cuốn mất tích, và sau đó được lập miếu thờ tại bờ biển.
Theo kế hoạch ém nhẹm việc giải cứu, thuyền của Khắc Chung hộ giá công chúa lênh đênh trên biển vùng Khoái Long, suốt 9 tháng để vua Chiêm không nghi ngờ về việc triều đình nhà Trần bắt cóc công chúa
2). Việc 9 tháng trên biển là không hợp lý
Với tư cách là một đại công thần nhà Trần, Trần Khắc Chung có cả chục phương cách để giữ bí mật về việc bắt cóc và đưa công chúa về Thăng Long.
Trên thuyền có ít nhất là vài chục binh lính làm thủy thủ, phục dịch mọi thứ về đời sống cho vài chục người trên biển. Phải đi chợ mua thực phẩm mỗi tháng 4 lần. Chín tháng trên biển phải chịu đựng bốn mùa phong ba bão táp, sóng to gió lớn…
Về chuyện ấy, chỉ có trời biết, đất biết, 2 người đó biết, hàng chục binh lính biết…Cho nên dân gian truyền miệng có câu.
Tiếc thay hột gạo trắng ngầnĐã vo nước đục, lại vần lửa rơm
Theo Phạm Văn Sơn, trong Lược sử Toàn thư, thì “Việc Trần Khắc Chung lập mưu đưa Huyền Trân về nước, sau khi Chế Mân qua đời là, việc bất tín đối với Chiêm Thành, thì phản ứng của nước Chiêm là chính đáng”. Đó là việc Chế Bồng Nga đã đòi lại đất của hai châu Ô, Lý. Đã có ba lần đánh chiếm Thăng Long, và các vua nhà Trần đã ôm của cải chạy trốn.
8*. KỸ THUẬT XÂY THÁP CỦA NGƯỜI CHĂM
Người Chăm đã phát triển hàng trăm năm, thể hiện kỹ thuật xây tháp với kiến trúc rất tinh tế, đến nay vẫn còn những bí ẩn về kiến trúc và kỹ thuật làm gốm. Bí ẩn vẫn còn bí ẩn, cụ thể là xây tháp không vôi vữa, không xi măng.
Trần Nhân Tông – Chế Mân và quan hệ Đại Việt – Champa Thử tìm dấu tích Champa qua một vài danh xưng1 ở Nghệ An | Nghiên cứu KHXH&NV
9*. LỄ HỘI ĐỀN HUYỀN TRÂN Ở THỪA THIÊN-HUẾ
Tham dự lễ gồm có đông đảo người dân, tăng ni phật tử, các chức sắc tôn giáo, và cả khách du lịch.
Tái hiện hình ảnh công chúa Huyền Trân qua Chương trình nghệ thuật “Nước non ngàn dặm”
Lễ hội là dịp tưởng nhớ công ơn mở mang bờ cõi của công chúa Huyền Trân, người con gái yêu thương và xinh đẹp của vua Trần Nhân Tông, vì sự nghiệp lớn là đem về cho Đại Việt một vùng đất Châu Ô, Châu Lý diện tích vuông ngàn dặm.
10*. CHUYỆN TÌNH HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA TRONG THI CA VÀ ÂM NHẠC
Chuyện tình Huyền Trân Công Chúa đã đi vào thi ca, âm nhạc, nghệ thuật. Trong thời đó, dân gian cho rằng Chiêm Thành là một dân tộc thấp kém nên có câu:
Tiếc thay cây quế giữa rừngĐể cho thằng Mán, thằng Mường nó leo.
Trong bài` hát “Nước non ngàn dặm ra đi” theo điệu Nam Bình, có người cho rằng Công chúa đã thốt ra trên đường đi về Chiêm Quốc:
“Nước non ngàn dặm ra đi…Mối tình chi!Mượn màu son phấnĐền nợ Ô, LýXót thay vì, Đương độ xuân thì. Số lao đao hay nợ duyên gì?”
Đó là than phiền số phận lao đao để trả nợ cho hai châu Ô, Rý.
1). Trong âm nhạc.
Nhạc sĩ Phạm Duy đã dùng câu “Nước non ngàn dặm ra đi”, nói về tâm sự của công chúa Huyền Trân trên đường sang Chiêm Quốc:
Nước non ngàn dặm ra đi…Dù đường thiên lý xa vờiDù tình cố lý chơi vơiCũng không dài bằng lòng thương mến người…
Trong bài “Trường ca trên đường cái quan” của Phạm Duy, nhạc sĩ đã phổ nhạc những bài thơ của Đào Tuyến Luyện.
Các nhạc sĩ Nguyễn Hiền, Châu Kỳ, Nam Lộc, và cổ nhạc cũng đã dựa vào Huyền Trân công chúa.
2). Tiểu thuyết lịch sử
Cuốn tiểu thuyết “Bão táp triều Trần” có 4 tập: Bão táp cung đình, Thăng Long nổi giận, Huyền Trân công chúa, Vương triều sụp đổ, được xuất bản năm 2003. Dịch giả Chapui Gérard chuyển sang tiếng Pháp cuối năm 2009 và phát hành năm 2012.
11*. ĐẶT TÊN ĐƯỜNG HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA
Huyền Trân công chúa được vinh danh như người phụ nữ đã góp phần mở mang đất nước và kiến tạo hòa bình, cho nên đã có 12 con đường mang tên Huyền Trân Công Chúa. Riêng ở Sài Gòn có hai con đường, một ở quận 1, và một ở quận 11.
12*. KẾT LUẬN:
Người mở mang bờ cõi, bảo vệ lãnh thổ thì được người dân tôn vinh, nhất là người thiếu nữ, công chúa đời Trần. Huyền Trần.
Trái lại, trong lịch sử dân tộc đã có những tên bán nước cầu vinh, thì lịch sử nguyền rủa. Nhất là ở thời đại của thế kỷ 21, vẫn còn có những tập đoàn bán nước. Bán nước có truyền thống. Nhục quá! Hết nước nói. (Tiếng Tây là phi nỉ lô đia)
Trúc Giang MN
Minnesota ngày 8-9-2022
*
Nguồn:
https://tiinz.com/2022/09/09/chuyen-tinh-huyen-tran
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét