Tác
giả Nguyễn Tường Thiết sinh năm 1940 tại Hà Nội. Ông là con trai út của nhà văn
Nhất Linh – Nguyễn Tường Tam. Trước năm 1975, ông là giáo sư Toán - Lý - Hóa;
phụ trách nhà xuất bản Phượng Giang. Ông định cư Mỹ từ sau năm 1975.
Ông viết bút ký “Rải
tro theo gió” tặng bà Nguyễn Tường Nhung, là trưởng nữ của Nhà văn Thạch Lam và cũng là
phu nhân của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, một trong những vị tướng lãnh xuất sắc
và trong sạch của Quân Lực VNCH.
(Tặng Nhung, “đứa con đầu lòng” của nhà văn Thạch Lam.)
Tôi nhớ lại hình ảnh anh trong bốn lần gặp ấy. Bốn lần
thì có đến ba anh hiện lên trước ly rượu. Đó cũng là hình ảnh cha tôi thường
thoáng hiện mỗi lần tôi nhớ về ông. Trước ly rượu anh trầm ngâm yên lặng. Cha
tôi cũng thế. Và bao giờ cũng vậy mỗi lần nghĩ về anh lòng tôi không khỏi có ngầm
một sự hãnh diện thầm kín rằng dòng họ tôi có được một người rể như anh nổi tiếng
là người thanh liêm. Cách đây sáu năm khi tái bản cuốn truyện của cha tôi, cuốn
Giòng Sông Thanh Thủy, tôi đã viết lời
đề tặng anh trên trang đầu cuốn sách những lời thật lòng: “Tặng anh Ngô Quang Trưởng, với cả tấm lòng quí mến và ngưỡng mộ”.
Cơ duyên nào mà một vị tướng lừng danh của quân lực miền
Nam Việt Nam lại kết duyên với cô con gái lớn của nhà văn tài hoa trong Tự Lực
Văn Đoàn? Tôi không biết nhiều để trả lời thật đúng cho câu hỏi này. Người có
thẩm quyền trả lời là bà Trưởng. Mang dòng máu của nhà văn Thạch Lam tôi nghĩ
Nhung nếu muốn viết cũng sẽ dễ thôi. Tôi cũng không có ý định viết hồi ký về
anh vì thật tình tôi không biết nhiều. Chỉ xin ghi lại đây đôi chút kỷ niệm với
anh trong dăm lần gặp gỡ hiếm hoi.
Trước khi gặp anh lần đầu tiên vào năm 1962 tôi đã
nghe lan truyền câu chuyện về một mối tình tay ba của hai sĩ quan trẻ thuộc hai
binh chủng khác nhau của QLVNCH, một không quân và một nhẩy dù, với cô con gái
lớn của một nhà văn nổi tiếng. Hai quân nhân cùng yêu một cô gái. Đó là chuyện
thường tình trong cuộc chiến. Điểm đặc biệt họ lại là đôi bạn rất thân nhau.
Trước cái chết có thể đến bất cứ khi nào, họ giao ước với nhau trong tình bạn
là nếu người nào nằm xuống trước thì người kia nguyện sẽ suốt đời chăm lo cho
cô gái kia. Người phi công sau đó tử nạn máy bay và định mệnh đã đẩy cô em họ
tôi gắn liền cuộc đời với anh Trưởng. Sau này nhiều lần gặp Nhung tôi toan hỏi
Nhung về câu chuyện tình này có đúng sự thực hay không, nhưng tôi lại thôi
không hỏi. Với tôi đó là một huyền thoại đẹp, hãy cứ để nguyên vẹn như thế
trong trí tưởng tượng của tôi.
Năm 1962 tôi ở Sài Gòn và dậy học tại trường trung học
Minh Tân ở Biên Hòa. Một bữa anh Triệu tôi, hiệu trưởng trường Minh Tân, chở
tôi từ Biên Hòa về Sài Gòn trên chiếc xe lambretta của anh. Đến Thủ Đức anh tôi
đề nghị ghé thăm Nhung lúc này đang ở đó. Trong lúc nói chuyện với Nhung thì có
tiếng xe đỗ ở ngoài cửa. Tôi nhìn ra. Từ trên xe jeep một sĩ quan bận đồ dù nhẩy
xuống. Hai bông mai trên ve áo trận. Anh Trưởng lúc ấy cấp bậc Trung úy giữ chức
vụ Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 5 Nhẩy Dù. Anh người tầm thước, nước da ngâm đen,
khuôn mặt sần sùi khắc khổ. Cảm tưởng đầu tiên của tôi là anh không những không
đẹp trai, lại không có cái “tướng” hùng của một quân nhân. Trí tôi lúc ấy
thoáng hiện câu chuyện tình tay ba và tôi hình dung khuôn mặt anh chàng phi
công tử trận chắc là phải hào hoa và đẹp trai hơn anh Trưởng.
Năm 1967 tôi gặp anh Trưởng lần thứ nhì ở Huế thì trên
ve áo trận của anh hai bông mai đã thay thế bằng một ngôi sao. Anh đã lên tướng!
Người sĩ quan tôi trông không có “tướng” ấy, năm năm sau đã được thăng tướng trong
một thời gian ngắn kỷ lục. Trong họ tôi bắt đầu có lời đồn đãi là từ khi anh
Trưởng lấy Nhung thì như diều gặp gió đường binh nghiệp của anh lên vùn vụt. Từ
một Trung úy Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 5 Nhẩy Dù anh bây giờ là Chuẩn tướng Sư
đoàn trưởng Sư đoàn 1 Bộ Binh. Năm ấy từ Sài Gòn tôi bay ra Huế hai tuần lễ và
tá túc tại đại học xá Nam Giao, nơi mà hai năm trước tôi đã từng là sinh viên nội
trú để theo học ở Đại Học Khoa Học Huế. Từ Nam Giao tôi đi bộ đến thăm cô em họ,
lúc này đã khó gặp vì ở một nơi rất “kín
cổng cao tường”. Tư dinh của tướng Trưởng là một biệt thự trên đường Lê
Thánh Tôn gần nhà bưu điện Huế. Chung quanh tòa nhà giây thép gai giăng đầy, ở
bốn góc là bốn lô cốt thiết lập bằng những bao cát với những họng súng chĩa ra
từ lỗ châu mai. Người lính gác cổng vào trong nhà báo và Nhung đã ra tận cổng để
tiếp tôi. Chúng tôi đang nói chuyện ở sa lông thì anh Trưởng về. Trông anh mệt
nhọc nhưng oai phong hơn hẳn lần tôi gặp anh 5 năm trước. Thuở ấy tôi chưa nhập
ngũ, vẫn còn là sinh viên, dù vậy trông anh tôi cũng có cảm giác hơi khớp.
Không biết có phải vì ngôi sao trên ve áo anh khiến tôi thấy anh oai vệ hơn
không. Tôi đứng dậy chào anh trong lúc Nhung nói với anh Trưởng: “Anh Thiết, con bác Tam đấy!”. Anh không
nói gì, chỉ khẽ gật đầu, rồi lẳng lặng ra chỗ quầy rượu nơi có đặt mấy chai
Martell có ngâm những củ sâm bên trong, anh rót rượu vào ly rồi cầm ly rượu
trên tay không uống, anh chậm rãi bước tới bước lui trong phòng khách, đầu cúi
nhìn sàn nhà vẻ mặt đăm chiêu suy nghĩ.
Năm 1970 khi tôi gặp lại anh lần thứ ba thì tôi đã là
một quân nhân. Sau biến cố Tết Mậu Thân tôi nhập ngũ khóa 2/68 Thủ Đức. Ra trường
tôi phục vụ ngành Chiến Tranh Chính Trị tại Tổng Cục CTCT ở Sài Gòn. Năm ấy khoảng
gần tết thím Sáu tôi tức là bà Thạch Lam mất, tôi đi viếng thím trong bộ quân
phục. Quan tài thím đặt tại tư dinh tướng Trưởng trong cư xá sĩ quan Chí Hòa. Họ
hàng chúng tôi đứng chật hai bên quan tài đặt chính giữa phòng khách. Xe jeep đậu
trước cửa. Anh Trưởng bước vào. Bỏ chiếc mũ lưỡi trai cặp tay – chiếc mũ gắn
hai ngôi sao đen – anh đứng yên lặng trước quan tài mẹ vợ cúi đầu. Đứng ở bên
này quan tài, đối mặt anh lần đầu trong tư thế một quân nhân, một Thiếu úy trước
một Thiếu tướng, tôi cảm nhận tất cả cái trọng trách lớn lao của vị tướng Tư Lệnh
Quân Đoàn IV, quân khu IV, hằn trên gương mặt khắc khổ của anh. Hai phút sau
anh đội mũ lên đầu rồi vội vã bước ra xe đi mất.
Năm 1972 sau “mùa
hè đỏ lửa” tôi là một trong ba sĩ quan của Khối Kế Hoạch/ Tổng Cục CTCT đi
thanh tra vùng giới tuyến. Ba người ấy là Trung tá Vĩnh Huyền, Thiếu tá Nguyễn
Công Luận và tôi với cập bậc Trung úy. Phái đoàn bay ra Huế trú đóng hai tuần lễ
ở Mang Cá trong cổ thành Đại Nội. Không khí nơi đây đượm mùi chiến tranh. Lần đầu
tiên kể từ ngày ra trường tôi trực diện với cuộc chiến. Đối phương lúc này thỉnh
thoảng vẫn tiếp tục nã pháo vào cổ thành Huế. Mỗi lần nghe tiếng đạn rít trên
không trung tôi quơ nón sắt chụp lên đầu nhào xuống giao thông hào nơi hàng
trăm binh sĩ thuộc đủ loại binh chủng và cấp bực cùng nhào xuống trú pháo. Theo
bản năng tự nhiên mỗi lần nghe tiếng đạn pháo rít trên cao là tôi lại chúi đầu
xuống đất mặc dù tôi biết rằng nghe được tiếng đạn rít tức là mình đã thoát chết
vì đạn đã bay qua khỏi đầu. Chính trong lúc trú pháo này mà tôi hiểu được nỗi
kinh hoàng mà anh vợ tôi Trung úy Nguyễn Thái Hòa và những chiến sĩ sư đoàn 5 Bộ
Binh tử thủ An Lộc đã phải hứng chịu trước những trận mưa pháo dữ dội hơn gấp cả
ngàn lần. Trước khi ra Huế lần này tôi đã đi chôn anh Hòa tại nghĩa trang Quân
Đội Biên Hòa. Anh tử trận ngày 7-7-1972 đúng ngày Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
bay xuống An Lộc gắn lon Đại úy cho anh và ngay đêm đó anh bị pháo chết. Nội
trong 24 tiếng đồng hồ ông anh vợ tôi đã lên chức hai lần, từ Trung úy lên cố
Thiếu tá. Và cũng chính trong lần ra Huế này mà tôi được nghe được rất nhiều
giai thoại về anh Trưởng, “người hùng tái
chiếm Quảng Trị” lúc này đã được vinh thăng Trung tướng với ba sao trên ve
áo và giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn I, Quân khu I. Tất cả những giai thoại đó nếu
được ghi lại đầy đủ tôi nghĩ có thể viết thành một quyển sách. Giai thoại về sự
thanh liêm trong sạch của anh cũng có. Giai thoại về tác phong chỉ huy của anh
cũng có. Giai thoại về lòng thương lính dưới quyền của anh cũng có.
Tôi nhớ là trong giao thông hào giữa hai đợt pháo kích
một vị sĩ quan cạnh tôi sau khi biết sự liên hệ rất gần giữa tôi với anh Trưởng
hỏi tôi có đi thăm tướng Trưởng trong lần ra Huế này không. Tôi trả lời không.
Rồi tôi nói thêm: “Mình chả dại. Đang
ngon lành trong ngành CTCT lại ở hậu cứ, gặp ổng nhỡ ổng lại ký giấy tống mình
ra tiền tuyến thì mệt lắm. Mà không phải tôi nói giỡn đâu. Một người anh họ tôi
cùng khoá với tôi 2/68 đã bị lãnh búa rồi. Ông tướng hãnh diện đi khoe với cố vấn
Mỹ là có người anh họ đang chiến đấu ở ngay tuyến đầu!”
Lần thứ tư tôi gặp anh Trưởng là vào tháng 7 năm 1993
tại Virginia, tiểu bang êm đềm của nước Mỹ. Như một khúc phim được quay nhanh,
hai mươi ba năm sau ngày tôi gặp anh lần chót ở Việt Nam tôi lại thăm anh Trưởng
tại tư gia, một căn nhà khiêm nhường tại vùng thủ đô Hoa Kỳ. Cuộc chiến Việt
Nam như một giấc mơ hãi hùng nhưng không thực lúc này đã trở thành dĩ vãng. Năm
đó vào tháng 7 chúng tôi bay qua miền Đông nhân ngày giỗ thứ 30 của cha tôi được
tổ chức tại nhà anh cả tôi, anh Việt, ở Virginia. Lần đầu tiên gặp anh Trưởng
trong bộ thường phục, trông anh là lạ. Anh bận chiếc áo mông-ta-gu màu đỏ trông
anh mập ra, trẻ trung và khỏe mạnh. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy ở anh vẻ an bình
hiện trên gương mặt. Nhưng đó chắc chỉ là bề ngoài. Bên trong chắc hẳn anh mang
nặng nỗi đau và niềm cay đắng của một vị tướng bại trận sẽ mang theo anh cho đến
tận cuối đời. Anh đích thân rót rượu và ân cần mời tất cả mọi người. Tôi toan
tiến lại gần anh, nói với anh vài lời, đặc biệt là bầy tỏ tấm lòng của tôi đối
với anh, nhưng tôi lại thôi. Tôi nghĩ trong bụng anh có thể đã nghe những lời bầy
tỏ tương tự như thế rất nhiều lần rồi, nói ra lại thành khách sáo, vả lại chúng
tôi là người nhà, còn thiếu gì những dịp khác để gặp anh tâm tình. Nhưng tôi đã
lầm. Dịp khác để gặp anh đã không bao giờ đến, cho đến khi anh ra đi vĩnh viễn
vào ngày 22 tháng 1 năm 2007. Tôi không thể ngờ lần thứ tư tôi gặp anh ở
Virginia đó cũng là lần chót. Và chúng tôi vẫn chưa bao giờ trao đổi với nhau
được lấy một lời. Tôi chỉ còn cách tự an ủi là ba năm trước khi anh mất anh đã
đọc những lời chân tình của tôi viết về anh trên trang đầu cuốn sách Giòng Sông Thanh Thủy tôi gửi tặng.
*
Trưa hôm nay tôi lái xe đến thăm anh Phạm Hậu. Nhà anh Hậu ở Bothell, cách Shoreline chỗ chúng tôi ở khoảng 20 phút lái xe. Từ mấy năm nay chúng tôi có một giao ước. Cứ cách khoảng hai tháng là hai đứa phải ới cho nhau một tiếng, hẹn nhau tại một quán ăn, ăn trưa rồi ngồi hàn huyên. Luân phiên chúng tôi trả tiền. Nhưng dạo này anh hơi lẫn, ngại lái xe, nên tôi thường đến nhà anh chở anh đi.
Năm ngoái cũng trong một lần đi ăn trưa như hôm nay
tôi đã kể cho anh Hậu nghe về ước muốn sau cùng của anh Trưởng là sau khi anh
chết tro của anh được thả trên đèo Hải Vân. Vào mùa hạ năm 2008, một năm sau
khi anh chết, ý nguyện đó đã được gia đình thực hiện. Theo lời Nhung kể cho tôi
trong một lần điện đàm thì anh Trưởng có một người tài xế sống ở Việt Nam mà
Nhung vẫn thường xuyên liên lạc và giúp đỡ từ nhiều năm nay. Chính chú tài xế ấy
đã đón Nhung và các con Nhung tại phi trường Tân Sơn Nhất khi Nhung mang bình
tro anh Trưởng về Việt Nam. Từ phi trường chú tài xế chở mọi người về nhà chú tại
ngoại ô thành phố Sài Gòn. Thật là một điều lạ lùng là nhà chú tài xế đó lại ở
trên đường Thạch Lam, một con đường mới mở sau này khá lớn và dài ở sâu trong
Chợ Lớn. Tôi có hỏi Nhung là chú ấy có biết Nhung là con của Thạch Lam hay
không Nhung trả lời là chú ấy không biết và Nhung cũng không nói. Rồi sau đó tất
cả bay ra Huế thuê xe lên đèo Hải Vân.
Đã hơn 10 năm qua, trời nắng cũng như mưa, người Bừa vẫn lặng lẽ túc trực, quét dọn, hương khói ở cái miếu thờ những người không may tử nạn nằm cô quạnh trên đỉnh đèo Hải Vân (ranh giới giữa Đà Nẵng và tỉnh TT-Huế)...
Đến gần đỉnh đèo nơi một khúc ngoặt nguy hiểm có một
cái miếu nhỏ thờ những người bị tai nạn chết ở đó Nhung quyết định chọn chỗ này
để rải tro. Suốt ngày hôm đó trời âm u giông gió. Mấy mẹ con và chú tài xế khấn
nguyện trước miếu. Một lát lâu sau khấn xong ngửng lên thì trời đất bỗng dưng
quang đãng hẳn lên mây tan và trời trong xanh. Vợ con anh Trưởng từng người một
kể cả người tài xế trung thành lần lượt rải tro theo gió, tro của vị tướng lừng
danh của quân sử VNCH bay trên ngọn đèo hùng vĩ Hải Vân nơi mà chú tài xế kia
đã nhiều lần chở vị tướng ba sao qua lại trên trục lộ Huế-Đà Nẵng, ngọn đèo đã
đưa vị tướng trấn lĩnh vùng địa đầu lên đỉnh vinh quang và cũng là ngọn đèo đã
kéo vị tướng ấy xuống chốn cùng thảm bại.
Rải tro theo gió... trên đỉnh đèo Hải Vân... ý nguyện
của người đã khuất gợi lên trong tôi hình ảnh vừa bi hùng lại vừa lãng mạn, như
là sự kết hợp tuyệt vời giữa mối tình của viên dũng tướng với cô con gái đầu
lòng của nhà văn Tự Lực Văn Đoàn.
Ngậm ngùi tôi lắng nghe anh Phạm Hậu đọc bốn câu thơ của anh:
Tướng
Ngô Quang Trưởng
*
Trưa hôm nay tôi lái xe đến thăm anh Phạm Hậu. Nhà anh Hậu ở Bothell, cách Shoreline chỗ chúng tôi ở khoảng 20 phút lái xe. Từ mấy năm nay chúng tôi có một giao ước. Cứ cách khoảng hai tháng là hai đứa phải ới cho nhau một tiếng, hẹn nhau tại một quán ăn, ăn trưa rồi ngồi hàn huyên. Luân phiên chúng tôi trả tiền. Nhưng dạo này anh hơi lẫn, ngại lái xe, nên tôi thường đến nhà anh chở anh đi.
Đã hơn 10 năm qua, trời nắng cũng như mưa, người Bừa vẫn lặng lẽ túc trực, quét dọn, hương khói ở cái miếu thờ những người không may tử nạn nằm cô quạnh trên đỉnh đèo Hải Vân (ranh giới giữa Đà Nẵng và tỉnh TT-Huế)...
Ngậm ngùi tôi lắng nghe anh Phạm Hậu đọc bốn câu thơ của anh:
"...Lệnh sáng giữ, lệnh chiều bỏ Huế!Bao chiến công... cũng thế mà thôi.Hải Vân... tro rắc bốn trời,Hạt tro nào... lạc vào nơi cổ thành?..."
Nguyễn Tường Thiết
Nguyễn Tường Thiết kể về chuyện ông Phạm Hậu (tức nhà thơ Nhất Tuấn với “Chuyện Chúng Mình”)
https://anhdao.org/a403/rai-tro-theo-gio-nguyen-tuong-thiet
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét