Chưa tới 50, tóc bác đã khá lơ thơ, nhưng da dẻ, khuôn mặt bác hồng hào đẹp lắm; cười và ăn nói luôn nhỏ nhẹ và chậm rãi, đúng một vị giáo sư khuôn mẫu. Khi ở cạnh nhà tôi, bác là giáo sư dạy nhạc ở trường Quốc gia Âm nhạc và kịch nghệ Sài Gòn (nay là Nhạc viện TP.HCM), hoạt động ca nhạc ở đài phát thanh, đài truyền hình Sài Gòn và soạn hòa âm cho hai hãng đĩa Asia, Sóng Nhạc.
Bộ Văn hóa – Giáo dục và Thanh niên Việt Nam Cộng Hòa bổ nhiệm nhạc sĩ Văn Giảng làm trưởng Phòng Học vụ Nha Mỹ thuật, phụ trách học vấn các trường âm nhạc ở Sài Gòn, Huế và Cao đẳng Mỹ thuật. Trước đó, ông là giám đốc trường Quốc gia Âm nhạc Huế.
Nói cắn răng là thật, vì trước đó, Sài Gòn từng là nơi ông tìm đến thi tú tài và tốt nghiệp cử nhân. Sau khi thi đậu Anh văn ở Hội Việt Mỹ, ông tu nghiệp âm nhạc ở Hawaii và Bloomington (Mỹ). Tốt nghiệp xuất sắc, ông được học bổng để tiếp tục nghiên cứu bậc cao học âm nhạc. Sau đó, về Việt Nam, ông vẫn quay trở về với Huế của mình chứ không ở Sài Gòn.
Huế vốn là nơi ông từng là giáo sư âm nhạc ở trường Hàm Nghi, Quốc học và trường sư phạm tiểu học. Khi ấy, ông mới ngoài 30 tuổi; chạy xe máy Zunndapp của Đức nổ bịch bịch, vang cả sân trường vốn yên tĩnh. Tu nghiệp về, ông được bổ nhiệm giám đốc trường Quốc gia Âm nhạc Huế.
Ở Huế, ông có núi Ngự, có sông Hương, con sông mà có lần ông chia sẻ với một học trò khi nghe hỏi nghịch ngợm trên con đò Thừa Phủ: “Thưa thầy, đã có ai về sông Tương chưa ạ?”. “Đối với tôi, sông Tương là sông Hương”.
Nghe vậy hay vậy, không cần phải trả lời. Nhạc sĩ Văn Giảng về nhà, âm thầm lấy giấy bút viết bài “Ai Về sông Tương”, không ghi tên tác giả là Văn Giảng như mọi khi mà đề tên tác giả là Thông Đạt, một bút hiệu mới toanh trong làng tân nhạc Việt Nam thời đó.
(…) Sau nhiều lần được nghe bài “Ai Về Sông Tương” quá hay trên làn sóng điện, qua các đài phát thanh, ông Tăng Duyệt gặp Văn Giảng và hỏi ở trong giới nhạc, Văn Giảng có biết Thông Đạt, tác giả bài “Ai về sông Tương” là ai không để ông thương lượng mua bản quyền xuất bản nhạc phẩm này nhưng Văn Giảng tảng lờ như không biết Thông Đạt là ai.
Rồi một hôm có hai người bạn trẻ của Văn Giảng là nhạc sĩ Đỗ Kim Bảng và nhà văn Lữ Hồ tình cờ đến nhà Văn Giảng chơi và thấy bản thảo bài “Ai Về Sông Tương” với tuồng chữ và lối chép nhạc của nhạc sĩ Văn Giảng trong xấp nhạc trên bàn viết nên nói cho ông Tăng Duyệt biết.
Ông này mới lái xe ngay tới nhà Văn Giảng và vài ngày sau đó, giới ngưỡng mộ tân nhạc mới có một ca khúc với thể điệu Blues tha thướt trong tay để mà ngân nga cho đỡ thương đỡ nhớ những khi trái tim rung động vì một bóng hình nào đó”.
Dòng sông Hương như dòng sông Tương trong bài thơ “Trường tương tư” chàng vốn thuộc lòng: “Quân tại Tương giang đầu – Thiếp tại Tương giang vĩ…” (Anh ở đầu sông Tương – Em ở cuối sông Tương…). Về tới nhà, nhạc phẩm “Ai về sông Tương” được chàng viết xong chỉ trong mười lăm phút.
Chàng nhạc sĩ Huế ấy lãng mạn đến như vậy đó.
Trước khi quyết định mua nhà khu trung tâm Ông Tạ cạnh nhà tôi, gia đình bác Giảng mướn nhà trong một con hẻm ở đường Trương Minh Ký gần đó, vùng ven Ông Tạ, vừa ở vừa dạy nhạc. Về nhà mới, bác cũng mở lớp dạy nhiều loại đàn, luyện ca và sáng tác.
Gia đình bác Giảng có ba con trai tên (gọi ở nhà) là anh Thức (tên thật là Ngô Văn Cảnh), Hùng (bằng tuổi tôi – Ngô Văn Thành), Lộc (sau tôi hai, ba tuổi – tên thật là Ngô Văn Tài); và bốn gái: chị Oanh, chị Hoa, chị Thư, chị Trang.
Riêng đám trẻ con trong xóm thì lén gào lên: “Mẹ Việt Nam mắt lồi mắt toét…”. Có lần
nghe tôi gào lên như vậy, ba tôi trừng mắt, giơ roi. Bác nghe, chỉ cười đôn hậu,
có vẻ… vui vui. Hẳn bác biết trẻ con là vậy. Chả là hồi làm nhạc trưởng Đài
Phát thanh Huế và giáo sư âm nhạc tại các trường Trung học Hàm Nghi, Quốc Học
và trường sư phạm tiểu học, bác từng sáng tác, in cả một tập nhạc thiếu nhi tên
“Hát mà học” với mười ca khúc: Đến trường, Chơi ná, Chê trò xấu nết, Mèo
chuột, Tham mồi, Gương sáng Lê Lai, Quang Trung hùng ca, Trăng Trung thu, Chúc
xuân và Tạm biệt.
Hai bác vốn yêu trẻ con, không bao giờ gọi trẻ con là
thằng này đứa nọ. Có lần cúng xong, bác đứng ở cửa nhà mình, vẫy tay gọi tôi: “Công ơi, lại đây…” và cho tôi mấy trái
chuối ngự cau Huế, trái nhỏ đều, ngọt và rất thơm, vỏ vàng xanh rất đẹp. Chắc
ai đó từ Huế gởi vô biếu bác.
3/
Cả nhà bác Huế lắm và chắc chắn yêu Huế vô cùng, tận cùng thuần thành với Phật và vô cùng lãng mạn với nhạc. Năm 18 tuổi, chàng thanh niên Văn Giảng đã tập hòa nhạc với các bạn Huế của mình, sau này đều là các nhạc sĩ nổi tiếng: Nguyễn Văn Thương, Lê Quang Nhạc. 20 tuổi, chàng trai ấy cùng nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba khởi xướng và phát triển nền Phật nhạc tại Huế.
Lớn lao như vậy mà sau 1975, khi biết tôi có vài bài
thơ thiếu nhi đăng báo, bác khuyến khích: “Công
giỏi quá. Hồi bằng tuổi Công, bác không được như vậy đâu”. Bác Giảng của
xóm tôi như vậy đó, nghệ sĩ lớn một cách sang trọng, rất Huế.
Bác sang trọng, nghệ sĩ từ máu thịt khi nhà bác vốn
dòng dõi trung lưu, có truyền thống về âm nhạc tại Huế. Ông nội của bác là một
nhạc sĩ cổ nhạc. Từ nhỏ, cậu bé Văn Giảng đã mê nhạc, tập chơi mandolin,
guitar… Có lần, vô nhà bác, tôi thấy có cả khung đàn tranh của các chị…
Tuy nhiên, nhận xét của ông Tăng Duyệt: “Văn Giảng chỉ viết được những bài hùng ca
thôi” không phải không có sự thực khi phần lớn những nhạc phẩm ban đầu của ông
thuộc thể loại hùng ca như “Thúc quân” (1949), “Đêm Mê Linh” (1951), “Quân hành
ca” (1951)… Riêng bài “Lục quân Việt Nam” (1950) thì lính tráng thời Quốc gia
Việt Nam lẫn Việt Nam Cộng Hòa không ai không thuộc nhạc phẩm rộn rã này, ít nhất
là lời mở đầu:
“Đường
trường xa muôn vó câu bay dập dồn,
Đoàn hùng binh trong sương lướt gió reo vang,
Đi đi đi lời thề nguyền tung gươm thiêng thi gan tài.
Đời hùng cường quyết chiến đấu đoàn quân ra đi…”.
Thời thanh niên ai chẳng sôi nổi nên cũng không lạ, dù
tâm tính, cõi lòng của vị nhạc sĩ uyên thâm Phật học này thật sự thuộc về nhà
Phật. Biệt danh của ông cũng thể hiện điều này, như Thông Đạt từ việc ghép pháp
danh Nguyên Thông của bác và Tâm Đạt của bác gái. Nhạc phẩm “Mừng ngày Đản Sanh” của bác đến giờ vẫn
là ca khúc chính thức cho lễ Phật đản Việt Nam.
Lãng mạn, tình cảm, đạo pháp nên gia đình bác sống hiền
hòa, nhẫn nhịn. Sau 1975, bác mang bỏ trước cửa hàng chục khuôn in nhạc của
bác, đúc chì gắn trên đế gỗ dày gần chục phân (cm). Có cả bản in “Ai về sông Tương”, “Hoa cài mái tóc”…
Tôi tiếc, lén ra ôm về nhà giấu trong gầm cầu thang. Sau phường soát văn hóa phẩm
đồi trụy, tàn dư chế độ cũ dữ quá, ba tôi sợ, mang ra chẻ củi (giờ mà còn, hẳn
nhiều người chèo kéo mua lại chứ chẳng chơi).
4/
Sau 1975, gia đình bác càng im lặng. Giữa những tiếng đọc kinh tối của xóm đạo Ông Tạ, tiếng tụng kinh gõ mõ nhẹ như ru của gia đình bác vẫn thoảng nhẹ, êm ả hàng đêm. Chỉ hai thằng con trai cuối của bác là Hùng với Lộc là đi sinh hoạt thiếu nhi với tôi. Bốn, năm giờ sáng, đám trẻ con khu tôi réo từng nhà “Hùng ơi, Lộc ơi, tập thể dục…”. Bác gái xịch cửa sắt cho con ra, cười vui với đám trẻ. Các anh chị vẫn học hành bình thường, có chị học Y, quen một anh cùng trường. Thỉnh thoảng anh ấy ghé nhà, xem ra cũng hiền lành, chơn chất.
Năm 1980, Hùng vào một trường cao đẳng. Học đâu chưa
xong năm nhất, bỗng một hôm, cả xóm không thấy bác trai và Hùng đâu. Mẹ tôi bảo:
“Khéo bác ấy đi vượt biên”. Thời buổi
ấy, vượt biên không phải là chuyện lạ và từ kính trọng của hàng xóm với gia
đình bác, không ai nói gì.
Vài năm sau, bác bảo lãnh bác gái và các anh chị đi
Úc. Riêng cô chị là ni sư một chùa nào đó ở Sài Gòn mà tôi không rõ ở lại thì
được nhà nước giải quyết cho ở ngôi nhà ấy với tư cách thuê của nhà nước. Thỉnh
thoảng gia đình bên Úc gởi quà về cho cô con gái là ni sư này. Trong đó, bác
nói con gái mang sang biếu mẹ tôi vài chai dầu xanh Con Ó.
Có một chị họ hàng với một quan chức trong thành phố
biết chuyện, hồi năm 2000, 2001 gì đó tôi không nhớ, bảo tôi: “Anh Công xin sang lại hợp đồng thuê nhà ấy
đi, rồi từ từ, tụi em sẽ đề nghị hóa giá nhà cho anh”. Mẹ tôi bảo: “Nhà bác Giảng, ai muốn sang thì sang; nhà
mình với nhà bác xóm giềng với nhau, không được làm vậy”.
5/
Khi định cư ở Úc, bác vẫn dạy nhạc và sáng tác như hồi ở cạnh nhà tôi, chủ yếu Phật nhạc. Hai vợ chồng yêu thương nhau cả đời. Bác Giảng mất ngày 9 Tháng Năm 2013 ở thành phố Footscray, bang Victoria, Úc. Tám ngày sau, 17 Tháng Năm 2013, bác Giảng gái đau tim sau khi rải cốt tro bác trai trên biển, đưa vào bệnh viện thì mất. Tro cốt bác gái cũng được rải xuống biển. Tình của hai bác hệt như lời nhạc bác viết: “Tình em biển rộng sông dài”.
Chỉ buồn một điều, có lẽ cũng là tâm nguyện của hai
bác: giá mà tro cốt hai bác được hòa vô dòng sông Hương quê nhà, lững lờ chảy
êm đềm bên chùa Từ Đàm quê xưa của bác…
“Ai có về bên bến sông Tương – Nhắn người duyên dáng tôi thương – Bao ngày ôm mối tơ vương…”.
Cù Mai Công
3/
Cả nhà bác Huế lắm và chắc chắn yêu Huế vô cùng, tận cùng thuần thành với Phật và vô cùng lãng mạn với nhạc. Năm 18 tuổi, chàng thanh niên Văn Giảng đã tập hòa nhạc với các bạn Huế của mình, sau này đều là các nhạc sĩ nổi tiếng: Nguyễn Văn Thương, Lê Quang Nhạc. 20 tuổi, chàng trai ấy cùng nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba khởi xướng và phát triển nền Phật nhạc tại Huế.
Đoàn hùng binh trong sương lướt gió reo vang,
Đi đi đi lời thề nguyền tung gươm thiêng thi gan tài.
Đời hùng cường quyết chiến đấu đoàn quân ra đi…”.
Sau 1975, gia đình bác càng im lặng. Giữa những tiếng đọc kinh tối của xóm đạo Ông Tạ, tiếng tụng kinh gõ mõ nhẹ như ru của gia đình bác vẫn thoảng nhẹ, êm ả hàng đêm. Chỉ hai thằng con trai cuối của bác là Hùng với Lộc là đi sinh hoạt thiếu nhi với tôi. Bốn, năm giờ sáng, đám trẻ con khu tôi réo từng nhà “Hùng ơi, Lộc ơi, tập thể dục…”. Bác gái xịch cửa sắt cho con ra, cười vui với đám trẻ. Các anh chị vẫn học hành bình thường, có chị học Y, quen một anh cùng trường. Thỉnh thoảng anh ấy ghé nhà, xem ra cũng hiền lành, chơn chất.
Khi định cư ở Úc, bác vẫn dạy nhạc và sáng tác như hồi ở cạnh nhà tôi, chủ yếu Phật nhạc. Hai vợ chồng yêu thương nhau cả đời. Bác Giảng mất ngày 9 Tháng Năm 2013 ở thành phố Footscray, bang Victoria, Úc. Tám ngày sau, 17 Tháng Năm 2013, bác Giảng gái đau tim sau khi rải cốt tro bác trai trên biển, đưa vào bệnh viện thì mất. Tro cốt bác gái cũng được rải xuống biển. Tình của hai bác hệt như lời nhạc bác viết: “Tình em biển rộng sông dài”.
“Ai có về bên bến sông Tương – Nhắn người duyên dáng tôi thương – Bao ngày ôm mối tơ vương…”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét