Nguồn:
https://www.facebook.com/tran.manhhao.376/posts/2837875883151264
Ca sĩ Thái Thanh và nhạc sĩ Phạm Duy. (Nhân 99 năm ngày sinh Phạm Duy 5-10-1921 -- 5-10-2020)
“Thơ
hay có thể bị vua bắt
Trăng
nhé nghìn đêm bạc tiếng gà”
(Trích bài thơ “LÝ BẠCH” của Trần Mạnh Hảo)
Chúng tôi (TMH) xin mượn tên cuốn sách: “Phạm Duy” còn
đó nỗi buồn” của họa sĩ, nhà văn Tạ Tỵ làm tiêu đề cho bài viết về nhạc sĩ Phạm
Duy của mình.
Phạm Duy - (từng là ca sĩ, nhạc sĩ nổi tiếng nhất của
nền tân nhạc Việt Nam, từng là giáo sư dạy trường Quốc gia âm nhạc Sài Gòn, một
nhà nghiên cứu âm nhạc xuất sắc, một nhà văn, nhà báo có phong cách riêng khi
viết báo, viết hồi ký) - kể từ bài hát đầu tiên phổ thơ Nguyễn Bính, bài “Cô
hái mơ” viết năm 1942 đến nay, đã có hàng mấy trăm bài hát (có người còn cho
ông đã viết đến con số trên dưới 1000 bài?) làm xúc động lòng người Việt Nam suốt
hơn 70 năm nay. Phạm Duy không chỉ là một hiện tượng âm nhạc vắt qua hai thế kỷ;
hơn nữa, ông còn là một hiện tượng xã hội, một hiện tượng văn hóa, một hiện tượng
lịch sử, cần phải có nhiều nhà Phạm Duy học mai sau nghiên cứu về ông.
Thuở nhỏ, thời kháng chiến chống Pháp, kẻ viết bài này
từng nghe bà mẹ mình - một người hát thánh ca trong ban Ca vịnh nhà thờ - từng
dùng nhạc Phạm Duy ru con. Những lời ca, giai điệu Phạm Duy đã thấm vào hồn tôi
từ thơ bé qua tiếng hát ru của mẹ như bài “Nương chiều”:
“Chiều ơi, lúc chiều về rợp bóng nương khoai, trâu bò
về giục mõ xa xôi, ơi chiều…Chiều ơi, áo chàm về quảy lúa trên vai, in hình vào
sườn núi chơi với, ới chiều…”
Bài “Nhạc tuổi xanh”:
…“Đường ta ta cứ đi, nhà ta ta cứ xây, ruộng ta ta cứ
cày…Diệt xong quân Pháp kia cười vang ta hát câu tự do…”
Thỉnh thoảng, khi buồn vui, mẹ tôi lại khe khẽ hát mấy
bài Phạm Duy viết trong kháng chiến chống Pháp, ví như : “Cây đàn bỏ quên”, “Khối
tình Trương Chi”, “Bên cầu biên giới”, “Tiếng đàn tôi”, “ Mười hai lời ru”…
Những bài hát của Phạm Duy, của Văn Cao (trước 1945) của
mẹ tôi được chép trên giấy học trò; có khi là những bản chép nguyên cả khuôn nhạc
in bột trên giấy bản nhầu nát; có khi, bố tôi (một người hát nhạc nhà thờ trong
ban Ca vịnh biết chơi đàn và biết xướng âm bản nhạc) phải dùng hộp bao diêm làm
dụng cụ kẻ nhạc, đặng chép lại bản nhạc cho rõ ràng giúp mẹ tôi…
Cải cách ruộng đất, gia đình tôi bị quy lên địa chủ,
các bản nhạc chép tay kia của Phạm Duy, Văn Cao… đều bị mất. Nhưng mẹ tôi thi
thoảng buồn, lại ngồi một mình khe khẽ hát nhạc Phạm Duy, Văn Cao, Đỗ Nhuận...
Những bản nhạc tuyệt vời của Phạm Duy, Văn Cao, Đặng Thế Phong, Dương Thiệu Tước,
Thẩm Oánh, Lê Yên, Văn Chung, Doãn Mẫn, Canh Thân, Đoàn Chuẩn, Việt Lang, Hoàng
Qúy, Tô Vũ, Hoàng Giác…bị quy là nhạc vàng, nhạc phản động, đồi trụy, bị cấm.
Tôi thường sang nhà người bà con hàng xóm, cùng với
ông em họ (lớn tuổi hơn tôi) tên là chú Bá, ghé tai vào cái radio hiệu Siêng
Mao nghe đài Sài Gòn phát nhạc vàng thời tiền chiến, mặt lấm la lấm lét như hai
tên ăn trộm…Một hôm chú Bá vừa đi đường vừa nghêu ngao bài “Nhớ Chiến khu” của
Đỗ Nhuận (thực ra bài này chính là bài nhạc cách mạng, nhưng âm giai buồn buồn
da diết giọng nhạc vàng của “Suối mơ”, “Bến Xuân”…) nên Bá bị công an xã bắt,
quy lên hát nhạc vàng của bọn Mỹ Diệm phát ra từ cái radio phản động…Chiếc
radio Siêng Mao của Bá bị công an xã tịch thu…
Từ đó, suốt tuổi thơ, tôi không còn được nghe những
giai điệu tiền chiến bất hủ kia nữa. Cho mãi tới sau này, khi ở trong rừng miền
Nam, trở thành một nhà báo và mua được cái radio bé tí, tôi lại tiếp tục được
nghe (lén) nhạc Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Phạm Đình Chương, Cung Tiến…dưới hầm
hào bom đạn…
Ngày 30/4/1975, từ rừng Lộc Ninh về Sài Gòn, chưa kịp
hoàn hồn, tôi đã bị Sài Gòn đánh chiếm bằng văn hóa, bằng văn học, bằng sách vở,
âm nhạc. Phạm Duy và Trịnh Công Sơn đã tái chiếm tâm hồn tôi; và hình như tôi,
đã tự nguyện quy hàng thứ âm nhạc, thứ văn học, văn hóa mà chế độ mới đang kết
án, cho là văn hóa phản động, đồi trụy. Các loại sách dịch gần như vô tận của
Sài Gòn còn sót lại sau đại họa đốt sách của chế độ mới đã xâm lược đầu óc tôi,
giải phóng tôi thoát khỏi ngục tù của dốt nát, của u mê, của cuồng tín ngớ ngẩn
một thời, “bắt” tôi vào trường tự nguyện “học tập cải tạo” đến giờ chưa chịu thả
ra…
May mắn thay, đầu tháng 5/1975, anh Trịnh Công Sơn đã
cho tôi và Trần Nhật Thu mượn cái máy nghe nhạc cũ kỹ mà anh không còn dùng tới.
Suốt mấy tháng trời, các kiệt tác âm nhạc của bên thua trận như Phạm Duy, Trịnh
Công Sơn, các bài hát tuyệt vời của Phạm Đình Chương, Cung Tiến, Văn Phụng,
Hoàng Trọng, Phạm Thế Mỹ, Tuấn Khanh, Hoàng Thi Thơ, Lam Phương, Trần Thiện
Thanh, Y Vân, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng, Vũ Thành An, Lê Uyên Phương, Trần
Trịnh, Phạm Mạnh Cương, Trường Sa, Anh Bằng, Khánh Băng, Nguyễn Ánh 9, Nguyễn
Trung Cang, Lê Trọng Nguyễn, Hoàng Nguyên, Văn Giảng, Đan Thọ, Vũ Đức Sao Biển,
Nguyễn Văn Đông, Nguyễn Đức Quang…qua tiếng hát của các danh ca : Thái Thanh, Lệ
Thu, Khánh Ly, Hà Thanh, Thanh Lan, Duy Trác, Sĩ Phú, Anh Khoa, Elvis Phương…
đã bắt sống tâm hồn tôi làm tù binh, cùng với thơ Nguyên Sa, thơ Nhã Ca, văn Võ
Phiến, Mai Thảo, Phan Nhật Nam, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam… nhốt thế giới tinh thần
tôi vào trang sách, vào khuôn nhạc khóa sol năm dòng kẻ của họ và “lưu đày” tâm
hồn tôi lại mãi với những bài ca đích thực con người…
Tôi yêu các nhạc sĩ có một bài hát bất hủ để đời, ví
như: “Xuân và tuổi trẻ” (La Hối phổ
thơ Thế Lữ), “Cô láng giềng” của
Hoàng Quý, “Em đến thăm anh một chiều
mưa” của Tô Vũ, “Biệt ly” của
Doãn Mẫn, “Giáo đường im bóng” của
Nguyễn Thiện Tơ, “Hướng về Hà Nội” của
Hoàng Dương, “Nắng chiều” của Lê Trọng
Nguyễn, “Ai lên xứ hoa đào” của Hoàng
Nguyên, “Trăng mờ bên suối” của Lê Mộng
Nguyên, “Chiều
tím” của Đan Thọ, “Ai về sông Tương”
của Văn Giảng, “Thu ca” của Phạm Mạnh
Cương, “Sang ngang” của Đỗ Lễ, “Thương nhau ngày mưa” của Nguyễn Trung
Cang, “Thu hát cho người” của Vũ Đức
Sao Biển, “Tôi đưa em sang sông” của
Nhật Ngân và Y Vũ…
Huống hồ, với thiên tài Phạm Duy đã có hàng mấy chục
bài hát bất hủ để đời, trong đó có đến vài chục bài thuộc hàng kiệt tác, thì
tôi càng kính phục ông hơn, yêu mến ông biết là chừng nào. Chính vì vậy, ngay từ
khi chưa biết chữ, nghe mẹ tôi hát nhạc Phạm Duy, đôi tai tôi đã bị ông này lấy
mất, để rồi ông thả tâm hồn tôi suốt hơn sáu mươi năm nay lang thang cùng nỗi “khóc cười theo vận nước nổi trôi” của
Phạm tiên sinh.
Chúng tôi xin phép kể ra các ca khúc tuyệt vời và rất
hay của nhạc sĩ Phạm Duy mà cá nhân tôi yêu thích, đã góp phần làm thay đổi cuộc
đời tôi:
“Nương
chiều”, “Tình ca”, "Nhạc tuổi xanh", “Bên cầu biên giới”, “Ngậm
ngùi”, “Áo anh sứt chỉ đường tà”, Ngày trở về, Mùa thu chết, Thuyền viễn xứ, Bà
mẹ Gio Linh, Về miền Trung, Bà mẹ quê, Cây đàn bỏ quên, Nghìn trùng xa cách, Việt
nam Việt nam, Bên ni bên nớ, Còn chút gì để nhớ, Nha trang ngày về, Đưa em tìm
động hoa vàng, Kỷ niệm, Ngày xưa Hoàng thị, Giọt mưa trên lá, Tình hoài hương,
Tiếng đàn tôi, Đố ai, Tiếng sáo thiên thai, Nụ tầm xuân, Rồi đây anh sẽ đưa em
về nhà, Cành hoa trắng, Cô gái Bắc kỳ nho nhỏ, Thương tình ca, Thà như giọt
mưa, Cỏ hồng, Người về, Đường em đi, Chuyện tình buồn, Nhớ người thương binh,
Con đường tình ta đi, Ông trăng xuống chơi, Chiến sĩ vô danh, Tuổi ngọc, Phượng
yêu, Còn gì nữa đâu, Thương ai nhớ ai, Gọi em là đóa hoa sầu, Em đi lễ chùa
này, Ngày đó chúng mình, Tìm nhau, Kiếp nào có yêu nhau, Yêu là chết ở trong
lòng, Khối tình Trương Chi, Tóc mai sợi vắn sợi dài, Nước mắt mùa thu, Chiều về
trên sông, Tôi đang mơ giấc mộng dài, Hẹn hò, Nước mắt rơi, Kỷ vật cho em, Tiễn
em, Trả lại em yêu, Chủ nhật buồn, Vết thù trên lưng ngựa hoang, Ta yêu em lầm
lỡ, Giết người trong mộng, Bao giờ biết tương tư, Em hiền như Masoeur, Đừng
nhìn nhau nữa em ơi, Nước non ngàn dặm ra đi, Ai đi trên dặm đường trường, Gió
đưa cành trúc la đà, Con đường cái quan…
Những kiệt tác ca, tuyệt tình ca trên gồm đủ thể loại
ca nhạc như cách mạng ca, sơn hà ca, quê hương ca, tình ái ca, tâm tư ca, trường
ca, rong ca, đạo ca, thiền ca, tâm ca, tâm phẫn ca, tục ca, vỉa hè ca, thiên địa
ca, vô thường ca, hư vô ca, nhật nguyệt ca, vũ trụ ca, sầu mộng ca, hoan lạc
ca, Phật ca, Chúa ca, quỷ ca, Càn khôn ca, Ta bà ca, Lão Trang ca, Thần tiên
ca, sinh diệt ca, liêu trai ca, mộ địa ca, hú hồn ca, yêu tinh ca, du mục ca,
tang bồng ca, ma xó ca, ngật ngưỡng ca, túy lúy ca, siêu hình ca, vô ngôn ca…
Phạm Duy còn có đóng góp lớn là món NGOẠI CA, tức công
việc chuyển ngữ cho các kiệt tác âm nhạc nước ngoài vào thị hiếu âm nhạc Việt
Nam mà khi hát lên, nhiều người vẫn cho là ca khúc Phạm Duy…
Những tuyệt tác ngoại quốc được Phạm Duy chuyển ngữ và
chỉnh sửa, phỏng lời, hoặc nắn lại nốt nhạc cho hợp tai người Việt Nam gồm : Ave Maria, Mối tình xa xưa, Dòng sông xanh,
Khúc hát thanh xuân, Chiều tà, Dạ khúc, Trở về mái nhà xưa, Mơ màng, Ánh đèn
màu, Vũ nữ thân gầy, Tình vui, Chuyện tình, Em đẹp nhất đêm nay, Cánh buồm xa
xưa, Giàn thiên lý đã xa, Vai áo màu xanh, Hận tình trong mưa, Nắng thu, Bài ca
ngợi tình yêu, Emmanuelle, Himalaya, Hờn ghen, Khi xưa ta bé, Không cần nói anh
yêu, Khúc hát thanh xuân, Lại gần hôn em, Nắng xuân, Ngày tân hôn, Người yêu nếu
ra đi, Biết ra sao ngày sau, Tình yêu ôi tình yêu, Vĩnh biệt người tình, Vĩnh
biệt tình ta…
Thật không thể nào tin được, một ông Phạm Duy bằng
xương bằng thịt lại có thể viết được ngần ấy bài tuyệt tình ca hay đến thế, mê
hoặc hồn người Việt Nam đến thế. Có cảm giác chỉ một mình Phạm Duy đã là cả một
thời đại tân nhạc Việt Nam. Có cảm giác trong người ông Phạm Duy còn giấu ẩn cả
trăm nghìn người khác; hoặc trong thân xác ông còn giấu cả trăm nghìn bộ óc
khác, trăm nghìn trái tim khác; trong hồn ông còn giấu trăm nghìn hồn khác;
trong đôi tai ông còn giấu trăm nghìn đôi tai khác. Cho nên ông mới đủ sức làm
ra một gia tài âm nhạc vô cùng đồ sộ, với một chất lượng không thể nào tưởng tượng
ra được, rằng đây là sản phẩm của chỉ một con người?
Khi nghe tin nhạc sĩ Phạm Duy bước vào tuổi 93 đang
lâm trọng bệnh, tôi ngồi trong nhà, một mình tha thẩn ngoài sân nghe lại một
cách hệ thống mấy chục album nhạc Phạm Duy trên Internet suốt cả nửa tháng trời
mà lấy làm vô cùng thán phục ông. Hình như ông Phạm Duy chính là lò sản xuất ma
xó vào loại lớn nhất thế giới? Trong mỗi bài hát, chừng như Phạm Duy đều gài
vào năm dòng kẻ nhạc khóa sol của ông một con ma xó, hầu hớp hồn người nghe?
Tôi đồ rằng tâm hồn ông Phạm Duy có chứa một cái dạ
dày (tất nhiên là dạ dày tinh thần) to bằng cả bầu trời? Quái kiệt giời sai xuống
trần gian có tên là Phạm Duy có cái dạ dày tâm hồn biết tiêu hóa muôn muôn sự vật,
từ sự vật thể chất đến sự vật tinh thần, rồi biến chúng thành giai điệu, thành
lời ca. Không có cái gì chúng ta nhìn thấy, cảm thấy, mơ thấy, sờ thấy, ngửi thấy,
nghe thấy, mơ thấy mà không có trong âm nhạc Phạm Duy. Từ góc sân nhà nơi ta lẫm
chẫm tập đi, tập nhìn, tập nghe, tập khóc, tập cười, tập bú mớm, tập ăn, tập uống,
tập làm người, thảy thảy đều có trong âm nhạc Phạm Duy.
Con sâu cái kiến, con giun, con dế, con chuồn chuồn,
con chim, con cá, con kênh, con sông, con bê, con nghé, con mèo, con chó, con lợn
, con gà, con voi, con vịt, con đom đóm, con người…đều hốt nhiên tìm đến năm
dòng kẻ nhạc, năm đại lộ Phạm Duy mà leo, mà bò, đi lại, chạy, chảy, bay, bơi
trong âm nhạc Phạm Duy… Cái cây, cái cối, cái chày, cái thằng con nít, cái nồi,
cái niêu, cái chum, cái vại, cái nhà, cái xe, cái mâm, cái chết, cái sống, cái
hư vô, cái thực tại, cái vô thường, cái hữu hạn, cái vô vi, cái sinh diệt, cái
ác, cái thiện, cái tốt, cái xấu, cái sai, cái đúng, cái đẹp, cái thoáng chốc,
cái muôn đời, cái đểu, cái chân, cái mê, cái tỉnh, cái giả, cái buồn, cái vui,
cái bất tử, cái siêu hình, cái yoni (cái l…) cái Linga (cái c…), cái vợ, cái
con, cái váy, cái khăn, cái nón, cái mồm, cái tay, cái chân, cái tóc, cái lông,
cái dại, cái khôn, cái mùi, cái mát, cái tai, cái âm dương, cái phồn thực, cái
mất, cái còn…đều được cái dạ dày âm nhạc khủng long của Phạm Duy tiêu hóa mà biến
thành muôn vàn âm giai, muôn vàn làn điệu, muôn vàn lời ca ma ám, ám lấy hồn
người?
Phạm Duy, ông có phải là thượng đế của âm giai, phù thủy
của khóa sol, ma xó của bảy thanh âm: đồ rê mi pha sol la xi, thần linh của tiết
tấu, quỷ sứ của nhịp điệu, con ma của ngôn từ…hay không mà hàng trăm bản nhạc của
ông không hề bị hội chứng đều đều, lặp lại (monotone) trêu chọc, phá đám?
Phạm Duy, có phải ngay từ trong bụng mẹ, máu Sông Hồng
đã ngấm vào máu ông, hồn cốt Thăng Long trong ca dao, dân ca, Truyện Kiều,
Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, thơ Hồ Xuân Hương, thơ Nguyễn Trãi, thơ thiền
Lý Trần cùng với heo may Hồ Gươm, mưa phùn Hồ Tây, gió bấc Kinh Bắc, hương cốm
mùa thu chim ngói Mễ Trì, thoang thoảng hương hoa các làng hoa Ngọc hà, Nghi
tàm, Nhật tân, Quảng bá ngát hơi xuân…đã làm nên máu thịt hồn ông? Nên đất ấy,
hồ ấy, thu ấy, khí thiêng ấy, chim ấy, thơ văn ấy, gió bấc ấy, hương hoa ấy,
làn điệu chèo ấy, quan họ ấy… đã mượn hồn ông mà hát lên cõi u u đất trời, hát
lên nỗi lòng con người buồn vui khóc cười xứ Bắc?
Từ tấm bé, qua gia đình, cha mẹ, qua khí trời bàng bạc
thu Hà thành, qua sách vở nhà trường, qua nỗi mơ hồ thiên địa, Phạm Duy đã tắm
mình trong tâm hồn dân tộc. Từ năm 1947, ông đã có một định hướng nghệ thuật hết
sức đúng đắn : để cả cuộc đời nghiên cứu dân ca, ca dao, tiếp thu tinh hoa âm
nhạc dân tộc, phát triển và nâng cao chúng để kết hợp với nhạc Tây phương vừa
du nhập vào nước ta qua nhạc nhà thờ, qua các bản giao hưởng cổ điển trong đĩa
nhạc, các ca khúc Pháp, Ý… tân thời hát trong tiệm nhảy, quán café được thanh
niên trí thức Hà thành học đòi bắt chước…
Có thể nói, Phạm Duy là nhạc sĩ đầu tiên đã nghiên cứu
âm nhạc dân tộc một cách hệ thống, rốt ráo, đã học tập, tiếp thu tinh hoa cha
ông trong nhạc ngũ cung, nâng cao lên để kết hợp với trào lưu “âm nhạc cải
cách” (musicque renovée) thời 1938-1945 mà thành phong cách phi phong cách (một
phong cách đa phong cách không dừng lại ở một air nhạc nào) có tên là phong
cách Phạm Duy, khiến người nghe nhạc ông không hề cảm thấy sự nhàm chán …
Phạm Duy, ông không phải là tháp Bayon bốn mặt của đền
đài Angkor Thom, Angkor Wat xứ Chùa Tháp. Nhưng ông chính là tháp Bayon muôn mặt
của dòng tân nhạc Việt Nam suốt 70 năm qua. Gương mặt tâm hồn ông, gương mặt âm
nhạc ông quả là muôn mặt: mặt dịu hiền, mặt thiết tha êm đềm êm ái, mặt tinh
khiết, mặt tươi như mặt thiếu phụ đêm xuân yêu chồng, mặt cau có đau khổ như mặt
gã trai thất tình, mặt quằn quại, mặt vò xé tang thương, mặt mê ly khoái lạc, mặt
dúm dó nhàu nát, mặt thất thần, mặt điêu linh, mặt lênh đênh phiêu bạt, mặt thất
sắc vô hồn, mặt hoen rỉ tối tăm, mặt hư vô hư ảnh, mặt nết đa đoan trang, mặt
đĩ thõa, mặt giập nát, mặt sáng bừng như trăng, mặt hoa da phấn, mặt ngây ngô,
mặt tiếu lâm, mặt hồng diện đa dâm thủy, mặt nạ người, mặt yêu tinh, mặt nạ
dòng vớ được giai tơ, mặt hoài nghi khôn xiết, mặt thăm thẳm vực sâu, mặt buồn
đêm ngơ ngác…Tất cả muôn mặt đó họp chợ lại thành gương mặt Phạm Duy - một mình
làm cả một nền âm nhạc…He he he he…
Đi tận cùng tâm hồn dân tộc, Phạm Duy đã gặp tinh hoa
thế giới và trở thành hiện đại bằng sự sáng tạo mang chất thiên tài của mình.
Xin quý bạn đọc nghe vài người khác nói về nhạc sĩ Phạm
Duy:
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý:
“Trong
‘gia tài’ của Phạm Duy,
có những tác phẩm mà qua lăng kính của mình ông đã nói lên những triết lý sâu sắc.
Chẳng hạn như ‘Nghìn trùng xa cách, người đã đi rồi. Còn gì đâu nữa mà khóc với
cười’… Công tâm mà nói, trong kho tàng âm nhạc Việt Nam, Phạm Duy là một nhạc
sĩ có nhiều tác phẩm để đời và mãi mãi còn trong lòng người Việt Nam qua nhiều
thế hệ”.
(Trong bài viết Phạm Duy, người bạn, người anh, người
thầy của tôi).
Nhạc sĩ Lê Uyên Phương:
“Như
tiếng chuông vọng đến từ hư vô. Như những tia chớp sáng ngời trong đêm tối. Như
những tia nắng ấm đầu tiên của một ngày trong mùa Đông giá lạnh. Như những tia
nắng chiều rực rỡ của một ngày đầy vui buồn của kiếp sống. Âm nhạc Phạm Duy đã
đến trong mỗi cuộc đời Việt Nam như không khí trong bầu khí quyển của ca dao, tục
ngữ, của truyện Kiều, của Cung Oán Ngâm Khúc, của Chinh Phụ Ngâm, của ngôn ngữ,
của âm thanh, của cảm xúc Việt Nam. Trong đáy lòng của mỗi người Việt Nam, từ
đã từng là một thiếu niên trong thời kháng chiến hay đến hôm nay là một thanh
niên ở cuối thế kỷ 20, đều mang một dấu vết nào đó còn sót lại của bầu dưỡng
khí đã nuôi lớn tâm hồn họ trong gần nửa thế kỷ này”
(Trích bài viết Phạm Duy, nắng chiều rực rỡ)
Thi sĩ Nguyên Sa:
“Hôm nay, có những người thích Rong Ca, có những
người mê Bầy Chim Bỏ Xứ, có những người ngất ngây với Hoàng Cầm Ca, có những
tín đồ của Thiền Ca. Có những người yêu Phạm Duy của new age, của nhạc giao hưởng,
của mini opera và của thánh ca hơn Phạm Duy của Tình ca, Phạm Duy của dân ca,
Phạm Duy của Kháng chiến ca, Phạm Duy của thơ phổ nhạc. Và ngược lại, có những
người, với họ, chỉ có Phạm Duy của Tình ca mới là Phạm Duy. Chỉ có Phạm Duy
Kháng Chiến Ca. Chỉ có Phạm Duy thơ phổ nhạc. Chỉ có Phạm Duy, chỉ có Phạm Duỵ...
Nhưng đó, bạn thích Phạm Duy nào, tùy bạn. Cũng vậy thôi, viên kim cương có một
ngàn mặt. Khác biệt với tấm gương chỉ có một mặt. Cho nên phải chọn lựa, phải
bàn cãi, phải bất đồng, phải suối ngàn đầu, sông trăm nhánh chảy về vĩnh viễn một
đại dương”.
***
Nhạc sĩ Phạm Duy, tên thật là Phạm Duy Cẩn, sinh ngày
5/10/1921 tại Hà Nội trong một gia đình văn nghiệp. Cha là Phạm Duy Tốn thường
được xem như nhà văn xã hội đầu tiên của nền Văn học Mới hồi đầu thế kỷ 20. Anh
là Phạm Duy Khiêm, giáo sư thạc sĩ, cựu Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Pháp, văn
sĩ Pháp văn, tác giả những cuốn Légendes des terres sereines, Nam et Sylvie, De
Hanoi à Lacourtine...
Cuộc đời của ông ngoài việc ca hát, sáng tác nhạc còn
có giai đoạn thi vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông dương, học thầy Tô Ngọc Vân,
và cùng chung lớp với Bùi Xuân Phái, Võ Lăng... Năm 1942 ông có sáng tác đầu
tay Cô hái mơ. Năm 1944, ông thành ca sĩ hát tân nhạc trong gánh hát cải lương
Đức Huy – Charlot Miều.
Bạn muốn biết thêm về tiểu sử nhạc sĩ Phạm Duy, chỉ cần
vào trang tìm kiếm www.google.com đánh hai từ Phạm Duy là từ điển mạng
(Wikipedia) sẽ cung cấp đủ cho bạn. Cũng như vậy, bạn vào trang tìm kiếm trên,
đánh từ khóa: Album nhạc Phạm Duy là có thể nghe được ngót trăm Album nhạc của
ông người trời họ Phạm…
Ngày 14/8/1999 tại nhà riêng, thị trấn Midway City, miền
Nam California, danh ca Thái Hằng, hiền thê của nhạc sĩ Phạm Duy đã từ trần, hưởng
thọ 72 tuổi (1927-1999), bỏ lại trên trần gian một người chồng tưởng nghiêng trời
lệch đất, tưởng như một con khủng long âm nhạc lừng lững trần ai, bỗng giờ đây
bị nỗi cô đơn khủng khiếp đến rợn người úp chụp lên đầu như trời sập. Chính từ
nỗi cô đơn đến tuyệt vọng vì sự ra đi của người bạn đời mà ý định “cóc chết ba năm quay đầu về núi”, tức về
hẳn Việt Nam sống nơi Phạm Duy hình thành. Sau một lần về nước thử xem một ông
già từng chống cộng, nay chỉ thích chống gậy (!) coi cộng sản có còn thích bắt
nhốt mình hay nữa không như hồi năm 1975? Nói dại, nếu hồi ấy ông không lẹ chân
di tản, lỡ kẹt lại, Phạm Duy có thể phải ở tù cho tới chết. Năm 2005 Phạm Duy về
nước sống thật, quyết định ở luôn quê hương cho đến khi ông xanh gọi về với tổ
tiên.
Lập tức Phạm Duy bị một số báo chí hải ngoại cực đoan
(chống cộng bằng chính phương pháp chụp mũ chính trị kiểu cộng sản) ném đá tơi
bời hoa lá. Họ dùng tất cả sự tục tằn, thô bỉ, thậm chí dùng cả cứt đái của
toàn nhân loại đổ chụp lên đầu một ông già thân cô thế cô, một mình hồi hương về
cố quốc để sống nốt những ngày tàn và để chết. Họ gọi ông bằng thằng, bằng mày,
bằng chó ghẻ, bằng quân nọ, quân kia. Họ cho ông ăn tất cả món dơ bẩn nhất trần
đời. Rằng, làm như tất cả tội lỗi của cộng sản đều do Phạm Duy gây ra. Rằng,
làm như Phạm Duy chính là thằng già đã mang tà thuyết về làm hại dân tộc, đất
nước vậy…
Phạm Duy vốn là một tay chơi, một bố già đanh đá có hạng,
một người nếu cần cũng mồm loa mép giải như ai, cũng anh chị Cầu Muối như ai,
cũng có thể chơi cả đòn đầu đường xó chợ dao búa (dao búa kiểu chữ nghĩa, dao
búa tượng trưng) xem có chết ai nào, có mà còn khuya mới bắt nạt được bố nhá!
Phạm Duy một mình lủi thủi, túc tắc “bút chiến” với một trăm ông chống cộng đều
chống nhau kia bằng chiến trường Internet. Trong cuộc chiến muôn chống lại một
này, chữ nghĩa trên màn hình vi tính của hai bên đều a-la-sô xung phong ồ ạt, để
lại từng đống xác chữ chết như ngả rạ trên chiến trường ảo điện báo.
Phạm Duy dùng chiếc que bông phèng cà rỡn chọc vào tổ
ong vò vẽ hải ngoại: này các con giời kia, các con đã mấy chục năm nghe nhạc
chùa của bố không phải trả tiền, nay còn tính ăn thịt bố chỉ còn xương bọc da nữa
hay sao? Rằng, bố làm nhạc khi toàn ngồi trên bệ xí nhà vệ sinh đấy, nhạc của bố
đôi khi cũng bốc mùi tí ti, sao các con chỉ cảm thấy thơm điếc mũi thế hả?
(Chuyện này thì thiên tài Alb. Einstein đã từng tuyên bố: tôi nghĩ ra thuyết
tương đối khi ngồi trong toilet đấy!). Thế là đám kẻ thù của “thằng già lơ láo về hàng cộng sản” liền
nhảy dựng lên kêu gọi, rằng ai có tro dùng tro, ai có trấu dùng trấu, ai có
phân dùng phân, phen này quyết ném vào mặt thằng “dê già”, thằng “loạn luân”
“ăn chè Nhà Bè” năm xưa toàn bộ tinh thần căm thù không đội trời chung của
người quốc gia chân chính ha ha ha …
Họ thi nhau bịa chuyện bôi nhọ Phạm Duy, bới móc đời
tư của ông rồi chửi rủa bằng những từ ngữ bẩn thỉu nhất, hè nhau quy chụp chính
trị một ông già cô đơn muốn về quê cha đất tổ để chết. Riết rồi Phạm Duy cũng mệt,
hơi đếch đâu mà cãi nhau với đám bùng nhùng ba bứa ấy? Nè, bố mượn phép thắng lợi
tinh thần của chú AQ Lỗ Tấn mà tạm phán rằng: các “toa” chửi “moa” cũng như
đang chửi bố các “toa” mà thôi…
Những người đồng hương tị nạn ném đá vào Phạm Duy qua
biển Thái Bình Dương chung quy cũng chả làm cóc gì được ông, lại còn có khi bị
khí chất đanh đá cá cày đáo để chua ngoa của “vũ khí mất gà” nơi ông chơi lại tóe khói chứ chẳng chơi. Nhưng khi
những người anh em bên kia giới tuyến nơi cố quốc cũng nhạc sĩ như ai, cũng trí
thức trí ngủ như ai thi nhau ném đá vào ông thì ông đành thở dài, im lặng chịu
đau, giả mù, giả câm giả điếc để ngồi nghe nỗi đời nhiễu nhương ra đòn thù ghen
ghét tài năng.
Ấy là vào năm 2005, sau khi về nước, Phạm Duy được
công ty văn hóa tư nhân Phương Nam mua đứt bản quyền trọn đời âm nhạc, trả cho
ông một số tiền thù lao kha khá là một căn nhà khang trang để ở và những đêm ca
nhạc rầm rộ. Công ty Phương Nam độc quyền bán vé kinh doanh những đêm nhạc Phạm
Duy, lời ăn lỗ chịu, tuyệt nhiên không có sự bù lỗ của nhà nước như khi các ông
nhạc sĩ quốc doanh làm đêm nhạc dối già.
Công chúng náo nức đi nghe nhạc Phạm Duy đông chật các
nhà hát, thậm chí không đủ vé bán, có người còn phải mua vé lậu, vé chui đắt gấp
hai ba lần giá vé chính thức. Phạm Duy bị “vây
giữa tình yêu” bởi lòng yêu mến của công chúng nơi cố quận với ông đã bị dồn
nén mấy chục năm trời nay chợt bùng vỡ. Ông bị dìm đến có cơ ngạt thở trong những
tràng pháo tay nổ rền như dàn sơn pháo đại hợp xướng Tân Tây lan chơi liên tù
tì thời chiến tranh Việt Mỹ.
Thói đời, ma cũ bắt nạt ma mới, đám nhạc sĩ cây đa cây
đề trong Hội nhạc sĩ Việt Nam thấy NGÀY TRỞ VỀ của Phạm Duy được công chúng đón
rước rất huy hoàng, hoành tráng, có vẻ giống như dân Pháp xưa đón Nã Phá Luân
chiến thắng từ châu Phi trở về… bèn nóng mặt, ghét cay ghét đắng mà hè nhau ném
đá vào Phạm Duy, toàn những cục đá vu cáo chính trị to bằng nắm tay, có vẻ muốn
khích nhà cầm quyền cấm tiệt nhạc Phạm Duy, hay giam lỏng ông cho nhạc cách mạng
của các ông nhạc sĩ bất tài lên ngôi…
Mở màn chiến dịch ném đá Phạm Duy tại quốc nội, nhạc
sĩ kiêm nhà báo Nguyễn Lưu (con trai nhân sĩ Nguyễn Xiển 1907-1997, từng là tổng
thư ký đảng xã hội Việt Nam, phó chủ tịch ban thường vụ quốc hội Việt Nam) viết
trên báo “Đầu tư” ngày 13-3-2006 bài:
“Không thể tung hô” như sau:
“Tôi
muốn nói đến trường hợp của nhạc sĩ Phạm Duy, người mới được xưng tụng sau đêm
nhạc ‘Ngày trở về’ (diễn ra tại Nhà hát Hòa Bình, TP.HCM). Một người bạn, nhà
văn Chu Lai đã tỏ ra tâm đắc với ý tưởng này và cho biết, Tạp chí Thế giới mới
số mới nhất có đăng một bài viết, với nội dung gói gọn: ‘Một người từng bỏ
kháng chiến theo thực dân Pháp, khi Pháp rút lại theo Ngô Đình Diệm và khi ngụy
quyền sụp đổ lại chạy qua Mỹ. Và tại đó, đã viết hàng loạt bài kêu gọi chống Cộng,
với giọng điệu ‘sặc mùi’ hiếu chiến. Nay, thấy Việt Nam vươn lên mạnh mẽ, lại
xin trở về! Hà cớ gì phải tung hô, xưng tụng đến như thế!”.
Cũng trên bài báo này, nhạc sĩ Nguyễn Lưu quy chụp
chính trị nhạc sĩ Phạm Duy bằng đòn vu khống chính trị bịa đặt trắng trợn như
sau:
“Đỉnh cao” sự
nghiệp chống Cộng của Phạm Duy là bài Mùa thu chết. Ở đó, tác giả đã công khai
tư tưởng chống Cộng của mình. Ông ta đã từ bỏ tình yêu với Tổ quốc bằng một bút
pháp thật sâu cay, đểu giả và ít ai quên cái mùa thu trong ca khúc ấy chính là
Cách mạng mùa thu, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
(Bài báo Không
thể tung hô của tác giả Nguyễn
Lưu đăng trên Báo Đầu tư ngày 13.3.2006)
Xin nhà báo nhạc sĩ Nguyễn Lưu coi lại xuất xứ bài hát
này của nhạc sĩ Phạm Duy: “Mùa thu chết”
rất nổi tiếng của nhạc sĩ Phạm Duy là phổ thơ của thi hào Pháp Apollinaire
(1880-1918). Bài thơ của Apollinaire chỉ có 5 câu, mang tựa đề L'Adieu (Vĩnh biệt),
nguyên văn:
J'ai
cueilli ce brin de bruyère
L'automne
est morte souviens-t'en
Nous
ne nous verrons plus sur terre
Odeur
du temps brin de bruyère
Et
souviens-toi que je t'attends
Tạm dịch:
Ta
ngắt một cành thạch thảo
Em
hãy nhớ cho mùa thu đã chết rồi
Chúng
ta không còn được nhìn nhau nữa trên đời
Mùi
thời gian đẫm hương thạch thảo
Em
hãy nhớ rằng ta vẫn chờ em
Căn cứ trên giấy trắng mực đen vừa dẫn trên, Nguyễn
Lưu cần phải viết thêm một bài lên án chính tác giả bài thơ là thi hào
Apollinaire - người đã mất từ năm 1918 – chính là người đã “chống cộng” vì dám
bảo Mùa thu cách mạng tháng tám 1945 ĐÃ CHẾT, chứ nào phải Phạm Duy… Chưa từng
thấy sự xuyên tạc văn bản nào trắng trợn và hèn hạ, dốt nát hơn sự xuyên tạc của
ông Nguyễn Lưu với bài thơ phổ nhạc “Mùa thu chết” này…
Nguyễn Lưu còn kéo thêm các nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn,
nhạc sĩ Tân Huyền vào băng nhóm ném đá Phạm Duy chỉ vì trò ghen tức, đố kị người
tài năng hơn mình, khi thấy quần chúng bày tỏ lòng yêu thích nhạc Phạm Duy một
cách cuồng nhiệt trong đêm nhạc “Ngày trở về” như đã nêu trên.
Ngay sau bài mở màn chiến dịch ném đá Phạm Duy của Hội
nhạc sĩ Việt Nam do nhà báo nhạc sĩ Nguyễn Lưu làm tiên phong, đã đến lượt quân
đỏ xuất tướng bằng bài viết “Nhạc Phạm
Duy và những điều cần phải nói” của Khánh Thi trên tờ “An ninh thế giới” số
tháng 4-2009 của Trung tướng công an Hữu Ước. Nhà báo Khánh Thy ghi lại sự phản
ứng rất tức giận của ba nhạc sĩ cây đa cây đề trong nước, xin trích vài đoạn
sau:
Nhạc
sỹ - NSND Trọng Bằng – nguyên tổng thư ký (tức chủ tịch) Hội nhạc sĩ Việt Nam
Tôi
có đọc trên báo thấy có nhiều lời tâng bốc cũng hơi là lạ, không quen.
Dư
luận chúng ta hơi dễ dãi và nhẹ dạ. Nhưng vấn đề là Phạm Duy phải tỉnh táo. Vì
ông hoàn toàn hiểu ông là ai, quá khứ đối với dân tộc của Phạm Duy là một tội lỗi.
Ông không thể so sánh ông với bất cứ một nhạc sỹ nào đã tham gia cách mạng, vì
thế ông không thể nào so sánh với nhạc sỹ Văn Cao. Không thể ví được. Văn Cao
là một con người có trình độ, là một nhà nghiên cứu dân tộc, ông Văn Cao là một
người toàn diện, và ông Văn Cao còn biết tôn trọng những người nhạc sỹ đàn em
đi vào con đường âm nhạc bác học, một người rất khiêm nhường biết mình, biết
ta.
Giả
sử có một nhạc sỹ X, Y, Z nào đó hỏi: Khi chúng tôi đi đánh Mỹ giải phóng dân tộc
thì ông làm gì? Chắc chắn rằng nếu là người hiểu biết đều hiểu rõ khi đó ông là
tác giả của các bài hát chống lại cách mạng, chống lại nhân dân, chống lại công
cuộc giải phóng dân tộc.
NS
Phạm Tuyên
Bởi
lẽ tìm tòi trong âm nhạc của Phạm Duy cũng chỉ có hạn thôi, trong khi đó tìm tòi
về mặt sáng tạo âm nhạc ở trong nước ta có rất nhiều tài năng, nhiều khả năng.
Ngay
vấn đề đem âm nhạc phục vụ cho sự nghiệp cách mạng thì làm thế nào mà so sánh nổi
với Văn Cao hay bất cứ một nhạc sỹ nào tham gia cách mạng. Sự đóng góp của nhạc
sỹ Văn Cao rất phong phú, bây giờ được ghi nhận là người có đóng góp lớn cho đất
nước và âm nhạc Việt Nam.
Tôi
chỉ có một suy nghĩ nhỏ, chúng ta chúc cho ngày trở về của nhạc sỹ Phạm Duy là
một sự trở về của lá rụng về cội. Còn đánh giá về con người, nhất là đánh giá về
tác phẩm thì phải rất thận trọng, công bằng và đúng bản chất, một phần nào đó
phải có giới hạn. Đừng chạy theo thị hiếu, theo cơ chế thị trường mà quá đề cao
sự đóng góp của nhạc sỹ Phạm Duy, như vậy mới xứng đáng với lịch sử, với những
người đã đổ máu xương cho đất nước, cho dân tộc được có ngày hôm nay.
NS
Hồng Đăng
Nhưng
gần đây, báo chí lại rộ lên về những chương trình của Phạm Duy. Tôi cũng nghe rất
nhiều người phàn nàn là tác phẩm của Phạm Duy như thế mà báo chí tâng bốc, đề
cao đến mức y như là nhân vật số một của âm nhạc Việt Nam hiện nay, và là người
nhạc sỹ kỳ tài. Điều ấy là vô lý, như thế không đúng, huống gì lại xem như người
có công lớn (?!).
So
sánh một cách thẳng thắn, những bài hát của Phạm Duy có một vài bài công chúng
thích và không phải bài nào công chúng cũng thích.
Trong
lúc ấy chúng ta có những tên tuổi lừng lẫy từ Đỗ Nhuận, Văn Cao, Lê Yên, Nguyễn
Đức Toàn, Huy Du, Hoàng Vân, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Xuân Khoát, và còn rất nhiều
người khác đã gắn bó với những ngày gian khổ, thiếu thốn cùng cực của đất nước
chỉ để góp một chút gì của mình cho cuộc chiến tranh vệ quốc.
Từ
ngày anh đi, anh Duy ạ, nền âm nhạc của chúng ta đã khác trước nhiều lắm. Từ một
đội ngũ thưa thớt thời của anh, giờ đây không biết bao nhiêu tên tuổi nổi lên một
cách xứng đáng, có hiểu biết, có tìm tòi, khác xa thời anh bỏ khu III, khu IV
mà đi. Tất nhiên anh Phạm Duy có thể kiêu một tý cũng chẳng sao, (thói thường
mà)! Nhưng những người hướng dẫn dư luận có lẽ nên nghĩ kỹ một tí, để khách
quan hơn, công bằng hơn. Còn riêng một chi tiết nhỏ về chuyên môn: Các anh em
nhạc sỹ sau này khai thác dân ca vào sáng tác mới giỏi hơn anh nhiều lắm.
Khánh Thy
Nguồn: An ninh thế giới
Thiết nghĩ, những phát biểu, những phản ứng đầy ghen tức,
đố kỵ rất cảm tính, thiếu lý tính của ba nhạc sĩ trên sau đêm nhạc rất huy
hoàng của nhạc sĩ Phạm Duy diễn ra trong nhà hát lớn Hà Nội cuối tháng 3/2009,
sẽ mãi mãi là vết nhọ trên gương mặt âm nhạc của ba vị này, không cách gì gột sạch.
Điều tôi băn khoăn là sao nhạc sĩ Phạm Tuyên (con út cụ
thượng Phạm Quỳnh, người từng bị Việt Minh thủ tiêu sau Cách mạng tháng tám
1945) một người điềm đạm, chín chắn, một trí thức con dòng cháu giống, danh gia
vọng tộc, sao lại đi phát ngôn những lời ghen ăn tức ở, ganh tài lộ liễu hơi bị
tầm thường với nhạc sĩ Phạm Duy thế? Xưa nay, tôi từng quý mến anh Phạm Tuyên
(người đã phổ nhạc bài thơ thiếu nhi “Mèo
đi guốc” của tôi, cũng như nhạc sĩ Nguyễn Lưu, người cũng đã từng phổ nhạc
bài thơ Kôn Tum của tôi tức TMH)
Chính ra, nhạc sĩ Phạm Tuyên - người có nhiều nét
tương đồng hoàn cảnh với nhạc sĩ Phạm Duy, hơn ai hết phải biết cảm thông với vị
nhạc sĩ “ba chìm bảy nổi chín lênh đênh” do
các trào lưu chính trị xô đẩy suốt mấy chục năm này, sao lại đi ném đá vào người
có số phận éo le như mình thế? Phạm Tuyên đi theo cách mạng bằng mặc cảm tự ti
đầy mình, nhục nhã vô hạn với một lý lịch xấu nhất nước: con đại phản động (Phạm
Quỳnh) bị cách mạng xử bắn, đã phải nhún nhường làm thân phận con sâu cái kiến,
đấm ngực ăn năn tội bằng các bài hát “yêu
đảng vượt chỉ tiêu trên giao” suốt mấy chục năm mới được vào đảng…Nhưng
thôi, chúng tôi không nói nữa, vì anh Phạm Tuyên còn cả nghĩ hơn tôi nhiều…
Văn hào nước Áo gốc Do Thái Stefan Zweig (1881-1942),
người đã cùng với vợ là bà Lotte tháng 2 năm 1942 tại Rio de Janeiro, đã làm cuộc
tự tử chính trị, bằng cách hai ông bà tự nguyện chết trên ghế điện trong tâm trạng
cô đơn tuyệt vọng, để phản đối cuộc chiến tranh thế giới thứ hai vô nhân đạo do
Hítle gây ra, đã từng có câu nói nổi tiếng: “Thân
phận con người trong thế kỷ hai mươi là thân phận con người chính trị”.
Ở Việt Nam, ngót 70 năm qua, không chỉ nhạc sĩ Phạm
Duy mà đến con kiến cũng phải mang thân phận chính trị. Từng con người Việt Nam
mang thân phận bao cát treo lủng lẳng để các tay boxe chính trị thi nhau đấm
như mưa trong các cuộc tập dượt đấu quyền anh cách mạng, quyền anh chiến tranh…
Phạm Duy mang thân phận bao cát treo lủng lẳng trước
những cú đấm tập dượt trời giáng của các tay quyền anh chính trị từ cả hai phía
đỏ và xanh, khiến ông bị xô dạt từ bờ chính trị này sang bờ chính trị khác mà
không sao chủ động…
Các nhà “bới móc
học” từng cho xem tấm ảnh Phạm Duy mặc bộ đồ bà ba đen của một chiêu hồi
viên đứng trên nền nhạc “Giọt mưa trên
lá” để công bố tin chấn động thế giới rằng, tay “tắc kè chính trị” này từng chống cộng khét tiếng đấy à nha…
Có thể trong cuộc đời riêng, vì hoàn cảnh sống đưa đẩy
tới chân tường, bắt buộc Phạm Duy phải bị chính trị hóa, nhưng âm nhạc của ông,
tuyệt đại đa số các bài hát hay nhất không hề bị chính trị hóa. Có thể ông đã
phải mặc bộ đồ bà ba đen của viên chức trong bộ chiêu hồi, nhưng bài hát “Giọt mưa trên lá” của ông là một kiệt
tác âm nhạc không hề phục vụ chính trị, rất khác các bài hát của mấy nhạc sĩ vừa
ném đá ông trong chế độ miền Bắc, luôn luôn lấy âm nhạc phục vụ chính trị làm mục
đích…
Âm nhạc Phạm Duy đạt được giá trị muôn đời vì đã vượt
lên trên các đối kháng chính trị nhất thời. Ấy là cái khác nhau một trời một vực
giữa Phạm Duy và Phạm Tuyên vậy.
Nếu cứ lấy lăng kính đạo đức, lăng kính chính trị để
soi lên cuộc đời các ông to bà lớn của cả hai phía quân xanh quân đỏ, chúng ta
đều chỉ nhìn thấy những âm bản thê thảm mà thôi. Lấy lăng kính chính trị, lăng
kính đạo đức ra soi mói cuộc đời riêng của Phạm Duy, rồi phủ nhận sự đóng góp
vô cùng to lớn cho dân tộc, cho Tổ Quốc Việt Nam bằng âm nhạc yêu nước, yêu con
người, yêu nhân loại hết cỡ của ông, như hai phía của cực đoan chính trị vừa
hùa nhau ném đá ông kể trên, thiết nghĩ là một việc làm thiếu lương thiện.
Trong bộ sách hồi ký đồ sộ của mình, Phạm Duy cũng thừa
nhận ông có tài, có tật, ông cũng như ai tham sân si, cũng ăn chơi hút sách cờ
bạc…trai gái; nhưng không có rượu chè bê tha à nha. Vụ “ăn chè nhà Bè” là vụ báo chí chơi xỏ ông, bịa đặt thêm mắm thêm muối
để đưa tin rẻ tiền cốt bán báo. Chẳng nhẽ, ông không có quyền mời ca sĩ Khánh
Ngọc (một bên là dâu, một bên là rể của đại gia đình họ Phạm) đi quán café để
bàn chuyện chuyên môn giữa nhạc sĩ và ca sĩ hay sao?
Những người ném đá Phạm Duy thường cho ông là người mục
hạ vô nhân, khinh người, khinh đồng nghiệp hơn mẻ. Trong hồi ký của mình, Phạm
tiên sinh đã nhiều lần cám ơn các nhạc sĩ đã mở đầu nền tân nhạc Việt từ Nguyễn
Văn Tuyên đến Đặng Thế Phong. Có cơ hội là ông tìm cách ca ngợi đồng nghiệp.
Trong bài hát “Yêu tinh tình nữ” có
câu hát nguyên văn như sau: “Yêu tinh
tình nữ thường hát cho tôi nghe bài ca tiền chiến của Đặng Thế Phong hay Văn
Cao tuyệt vời”.
Phạm Duy viết về Văn Cao trong hồi ký:
“Thấp
bé hơn tôi, khép kín hơn tôi, nhưng Văn Cao tài hoa hơn tôi nhiều. Chắc chắn là
đứng đắn hơn tôi. Lúc mới gặp nhau, anh ta chưa dám mày-tao với tôi, nhưng tôi
thì có cái tật thích nói văng mạng (và văng tục) từ lâu, kết cục, cu cậu cũng
theo tôi mà xổ chữ nho. Nhưng Văn Cao bản tính lầm lỳ, ít nói, khi nói thì bàn
tay gầy gò luôn luôn múa trước mặt người nghe. Anh ta thích hút thuốc lào từ
khi còn trẻ, có lần say thuốc ngă vào tay tôi. Về sau, anh còn nghiện rượu rất
nặng.”
Trong hồi ký Thời Cách mạng kháng chiến của Phạm Duy,
ông viết:
“Bài
Trường ca Sông Lô của Văn Cao là một tác phẩm vĩ đại. Văn Cao luôn luôn là một
người khai phá và là cha đẻ của loại Trường Ca”
(Cali, 1989, tr.121)
Con tàu đất nước hôm nay dường như đang mất thắng, có
cơ đâm vào chân tường diệt vong bởi nạn nội xâm và giặc ngoại xâm đe dọa, nơi đời
sống tâm hồn dân tộc đang bị tha hóa cực độ, gần như các giá trị tinh thần tốt
đẹp của dân tộc thời Thơ Mới, thời văn chương Tự lực văn đoàn đang có cơ sụp đổ,
thì việc xuất hiện lại những bài hát đầy nhân bản của Phạm Duy trong nền nhạc
Việt hôm nay, hình như đang cho chúng ta cái cơ hội mong manh để hi vọng.
Phạm Duy, tượng đài lớn nhất của nền tân nhạc Việt Nam
đang cùng các tượng đài Văn Cao, Trịnh Công Sơn… sừng sững dưới vòm trời văn học
nghệ thuật dân tộc, cùng các tượng đài thi ca xưa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ
Xuân Hương…sẽ mãi mãi trường tồn tới muôn vàn mai hậu...
Sài
Gòn ngày 07-01-2013
Trần Mạnh Hảo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét