BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Bảy, 30 tháng 10, 2021

HUYỀN THOẠI TT KH VÀ HAI SẮC HOA TY GÔN – Thụy Khê

Nguồn:
https://tchanhpb.violet.vn/entry/huyen-thoai-ttkh-va-hai-sac-hoa-ty-gon-thuy-khue-3733226.html
 

Trong những bài thơ tác giả ẩn danh hoặc ký tên nhưng không biết rõ người ấy là ai, Hai sắc hoa ty gôn và TTKh là một huyền thoại lãng mạn đã gây mối trắc ẩn cho nhiều thế hệ yêu thơ.
 
Câu chuyện bắt đầu cách đây 70 năm, ngày 27/9/1937 trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bẩy, số 174 xuất bản tại Hà Nội, có đăng truyện ngắn Hoa ty gôn của Thanh Châu, nội dung kể lại mối tình tan vỡ của đôi trai gái ngày trước đã hò hẹn dưới giàn hoa ty gôn. Ít lâu sau, có người đàn bà trẻ, dáng dấp bé nhỏ, nét mắt u buồn, mang đến tòa soạn Tiểu Thuyết Thứ Bẩy một phong bì dán kín, gửi cho ông chủ bút, trong có bài thơ Hai sắc hoa ty gôn, ký tên TTKh. Bài thơ Hai sắc hoa ty gôn được đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bẩy số 179, ra ngày 30/10/1937, và sau đó còn ba bài nữa cũng ký tên TTKh được gửi bằng đường bưu điện đến tòa soạn: 

- Bài thơ thứ nhất, Tiểu Thuyết Thứ Bẩy số 182 (20/11/1937),
- Đan áo cho chồng, đăng trên Phụ Nữ Thời Đàm,
- Bài thơ cuối cùng, Tiểu Thuyết Thứ Bẩy, số 217 (23/7/1938).

Bài thơ thứ nhất xuất hiện sau Hai sắc hoa ty gôn gần một tháng, và Bài thơ cuối cùng đăng tám tháng sau.
 
Ngay khi Hai sắc hoa ty gôn ra đời, giới văn nghệ sĩ đã xôn xao, thi sĩ J. Leiba, người cùng tâm sự với TTKh và là tác giả hai câu thơ nổi tiếng "Người đẹp vẫn thường hay chết yểu. Thi nhân đầu bạc sớm hơn ai", chép lại nguyên văn bài Hai sắc hoa ty gôn trên Ngọ Báo với lời mở đầu:
 
Anh chép bài thơ tự trái tim
Của người thiếu phụ lỡ làng duyên
Lời thơ tuyệt vọng ca đau khổ
Yên ủi anh và để tặng em.
 
Nguyễn Bính sau khi đọc Bài thơ thứ nhất đã viết bài Dòng dư lệ để tặng TTKh, in lại trong tập Lỡ bước sang ngang và Thâm Tâm có ba bài Màu máu ti gôn, Dang dở và Gửi TTKh, và nhiều thế hệ sau còn có những bài thơ khác sụt sùi thương cảm cho số phận TTKh. Vậy TTKh là ai ?
 
GIỌT LỆ TƯƠNG TƯ MỚI
 
Hai sắc hoa ty gôn mở đường cho một lối lãng mạn khác với lãng mạn Đông Hồ, Tương Phố. Có thể nói Hai sắc hoa ty gôn là giọt lệ tương tư mới, nơi TTKh, không phải là giọt lệ khóc chồng của Tương Phố, khóc vợ của Đông Hồ, mà là giọt lệ khóc cho tình yêu; hơn thế nữa, khóc người tình ngoài hôn nhân, một đối tượng tự do, phóng khoáng, vượt khỏi khuôn khổ lễ giáo thời bấy giờ. Và lần đầu tiên hai chữ người ấy được chính thức đưa vào thi ca, sau này nó sẽ trở thành "cổ điển", trở thành ngôn ngữ gối đầu giường của giới trẻ trong nhiều thế hệ:
 
Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn,
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc,
Tôi chờ người đến với yêu đương.
 
Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong,
Và phương trời thẳm mờ sương, cát,
Tay vít dây hoa trắng chạnh lòng.
 
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài trong lúc thấy tôi vui,
Bảo rằng:"Hoa, dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!"
 
Thuở ấy, nào tôi đã hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly,
Cho nên cười đáp:"Màu hoa trắng
Là chút long trong chẳng biến suy."
 
Đâu biết lần đi một lỡ làng,
Dưới trời đau khổ chết yêu đương.
Người xa xăm quá ! - Tôi buồn lắm,
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường...
 
Từ đấy, thu rồi, thu lại thu,
Lòng tôi còn giá đến bao giờ
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ...
Người ấy, cho nên vẫn hững hờ.
 
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tim bóng "một người".
 
Buồn quá! hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ.
Và đỏ như màu máu thắm pha !
 
Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi...
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã,
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi !
 
Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
Chiều thu, hoa đỏ rụng chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng,
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò.
 
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng,
Trời ơi! Người ấy có buồn không ?
Có thầm nghĩ tới loài hoa... vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng ? (1)
 
NGƯỜI ẤY

Trong văn xuôi Việt Nam, hai chữ người ấy đã được Nguyễn Trọng Quản dùng để chỉ người tình trong truyện ngắn Thày Lazaro Phiền từ 1887. Vậy Nguyễn Trọng Quản là người đầu tiên đưa danh từ Người ấy vào trong văn Việt. Và Thanh Châu xướng lên hình ảnh hoa ty gôn trong truyện ngắn đăng trước bài thơ của TTKh một tháng, trên Tiểu Thuyết Thứ Bẩy.
 
Nhưng TTKh là người đầu tiên sử dụng hai chữ "người ấy" và hình ảnh "hoa ty gôn" vào thơ, như một hình tượng nghệ thuật mơ hồ và phiếm định về người tình và cuộc tình tan vỡ. Về mặt tâm lý xã hội, người đàn bà có chồng những năm 36 - 37, mấy ai dám nói đến người tình một cách công khai ? TTKh đã viết nên những lời tâm sự của bao nhiêu người đàn bà cùng cảnh ngộ ngang trái, sống trong xã hội Khổng Mạnh đầu thế kỷ:
 
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tim bóng "một người".
 
TT KH. LÀ AI?
 
Trong Bài thơ thứ nhất, in sau Hai sắc hoa ty gôn hai tháng, có những yếu tố xác định rõ hơn về cuộc tình này:

Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
Yêu bóng chim xa nắng lướt mành.
 
Và nhất là hai câu cuối:
 
Biết đâu tôi một tâm hồn héo
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi.
 
Vườn Thanhchồng nghiêm là hai yếu tố gây tranh luận về nơi xẩy ra cuộc tình và tên người chồng. Vườn Thanh ở đâu? Có phải ở Thanh Hóa không? Và người chồng của TTKh tên là gì ? Có phải là Nghiêm không ?
 
Đến bài thơ thứ ba, bài Đan áo cho chồng, lời thơ xa xót đầy nước mắt:
 
Ngoài trời mưa gió xôn xao
Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm
Ai đem lễ giáo giam em
Sống hờ trọn kiếp trong duyên trái đời.
 
Bài thơ cuối cùng có những câu gần như khó hiểu:
 
Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy
Mà viết tình em được ích gì ?
 
Bởi nếu TTKh là người đem chuyện của mình ra viết thành thơ, thì tại sao nàng lại trách ai ? Vậy ai đây là ai ? Nàng trách chính nàng hay nàng trách người yêu? Nhất là đoạn sau, lời hờn giận càng thêm gay gắt:
 
Là giết đời nhau đấy biết không ?
Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
Giận anh em viết dòng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng.
 
Tất cả những lời trách móc u uẩn này với nhịp điệu du dương, lời thơ tha thiết, gắn bó, làm cho toàn bộ tác phẩm trở thành huyền thoại.
 
..................

(1)  Hai sắc hoa ty gôn - TTKH (Tiểu thuyết thứ bảy, số 179, 30/10/1937)
(2)  Nếu so sánh 4 bài thơ ký tên TTKh và 3 bài thơ "trả lời" của Thâm Tâm in trên Tiểu Thuyết Thứ Bẩy sau đó, người ta có thể mở được những nấc cửa đầu tiên vào những bí ẩn này. Bài Gửi TTKH của Thâm Tâm có những câu sau đây:

...
Tiếng xe trong vết bụi hồng
Nàng đi thuở ấy nhưng trong khói mờ
Tiếng xe trong xác pháo xưa,
Nàng đi có bốn bài thơ trở về
Tiếng xe mở lối vu qui
Nay là tiếng khóc nàng chia cuộc đời!
Miệng chồng, Khánh gắn trên môi
Hình anh, mắt Khánh sáng ngời còn mơ.
Từ ngày đàn chia đường tơ
Sao tôi không biết hững hờ nàng đan
Kéo dài một chiếc áo len
Tơ càng đứt mối, nàng càng nối dây.
Nàng còn gỡ mãi trên tay,
Thì tơ duyên mới đã thay hẳn màu.
Góp hai thứ tóc đôi đầu,
Sao còn đan nối những câu tâm tình?
Khánh ơi còn hỏi gì anh?
Lá rơi đã hết mầu xanh màu vàng."
....
 
Thâm Tâm nhắc đến người yêu tên Khánh. Vậy TTKh là gì ? Có phải là những chữ Thâm Tâm - Khánh, viết tắt ? Hay là Tuấn Trình - Khánh (vì Thâm Tâm tên thật là Nguyễn Tuấn Trình). Hay TTKh là Trần Thị Khánh, người yêu của Thâm Tâm ?
 
Có thể nói hầu hết những nhà biên khảo từ Hoài Thanh, Hoài Chân, trong Thi Nhân Việt Nam (1940), Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên (1965), Nguyễn Hữu Long, Nguyễn Tấn Trọng trong Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến (1968) ... và gần đây trong Tuyển Tập Thơ Mới 1932-1945 Tác Giả và Tác Phẩm do Lại Nguyên Ân và Ý Nhi tập hợp phát hành năm 1992, tất cả đều đánh dấu hỏi về TTKh.

 


LẬP LUẬN CỦA NGUYỄN TẤN LONG VÀ NGUYỄN HỮU TRỌNG
 
Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng là hai nhà biên khảo đầu tiên có ý tìm hiểu kỹ nhất về cái mà hai ông gọi là "Nghi án TTKH và Thâm Tâm". Trong bộ Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến, hai ông đưa ra những nhân chứng và những giả thuyết đã xuất hiện trên báo chí, văn đàn từ năm 38 đến 68 của các ông Giang Tử, Thạch Hồ, Y Châu, Nguyễn Bá Thế, Lê Công Tâm, Anh Đào. Người thì cho rằng TTKh chính là Thâm Tâm. Người lại quả quyết TTKh là Trần Thị Khánh, người yêu của Thâm Tâm.
 
Ông Giang Tử thuật lại cuộc gặp gỡ với nhà thơ Tế Hanh vào tháng 11 năm 1944 trên chuyến xe đi Quảng Ngãi: “Tế Hanh cho biết TTKh chính là Trần Thị Khánh, người em gái đồng tông với mình ở Thanh Hoá và kể rõ thiên tình hận của nàng và thi sĩ Thâm Tâm”. Giả thuyết này không đứng vững vì Tế Hanh không phải người Thanh Hoá mà Quảng Ngãi và vườn Thanh trong bài thơ không chắc đã là Thanh Hoá.
 
Ông Thạch Hồ và ông Y Châu đều cho biết:
TTKh là nhân vật có thật, đã đôi ba lần đến thăm thi sĩ Thâm Tâm ở Khâm Thiên, lúc ông này ở chung với Nguyễn Bính và Trần Huyền Trân (giả thuyết này phù hợp với lời tường thuật của Nguyễn Vỹ sau này).

Ông Nguyễn Bá Thế, tức nhà văn Thế Nguyên lại xác định: TTKh chính là nhà văn Thẩm Thệ Hà, có tên thật là Tạ Thành Kỉnh, TT là Tạ Thành còn K và H là chữ Kỉnh viết tắt. Việc này bị Thẩm Thệ Hà phủ định hoàn toàn.
 
Nhưng có ba giả thuyết đáng chú ý:

- Trên tạp chí Giáo Dục Phổ Thông, số 49, ra ngày 1/11/1959, tại Sài Gòn, ông Lê Công Tâm cho biết: TTKh chính là thi sĩ Thâm Tâm, người đã dàn cảnh một thiếu phụ bị ép duyên, khóc tình dang dở bằng những bài thơ Hai sắc hoa ty gôn và Bài thơ thứ nhất.

- Báo Sống ra ngày 15/4/1967, ông Nguyễn Tố, xác định đã sống chung với Thâm Tâm năm 1936, cùng với Trần Huyền Trân, Vũ Trọng Can. Thâm Tâm có mấy bài thơ ký tên TTKh như bài Hai sắc hoa ty gôn. Lúc đó Khánh là người mà Thâm Tâm yêu say đắm, lúc Khánh đi lấy chồng, Thâm Tâm đau khổ gần như phát điên. Lũ chúng tôi vừa giễu cợt, vừa khuyên lơn. Chính trong thời gian thất tình, Thâm Tâm viết được mấy bài thơ ký tên TTKh.

- Nhưng trong báo Nhân Loại, bộ mới số 108 ra tháng 7 năm 1958 tại Sàigòn, ông Anh Đào lại đưa ra một thoại mới mà thoại này, theo ông, do chính Thâm Tâm kể lại. Ông Anh Đào kể rằng: Năm 1941, trong một đêm thu lạnh lẽo, ông được ngồi giữa hai nhà thơ Nguyễn Bính và Thâm Tâm bên một bàn đèn thuốc phiện và chính ông được nghe Thâm Tâm tâm sự. Thâm Tâm nói rằng: TTKh. là tên một thiếu phụ mà trước kia tôi yêu. Và Thâm Tâm xác định những bài thơ đăng trên báo là của nàng, và ông Anh Đào kết luận rằng Thâm Tâm xứng đáng là "người ấy" của TTKh.
 
Sau khi đưa ra các luận chứng và giả thuyết trên đây, Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng, tác giả Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến, kết luận:
 
TTKh. không thể là sản phẩm tưởng tượng của Thâm Tâm vì đó là nỗi lòng tha thiết của một người, với những vần thơ lâm ly như thế thì người khác không thể viết thay được. Vậy Thâm Tâm là Thâm Tâm và TTKh là TTKh. Hai người có thể là đôi tri kỷ nhưng không thể cùng là một người. Các tác giả Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến muốn đóng hồ sơ nghi án trên một huyền thoại.

Nguyễn Vỹ đã lên tiếng trong “Thâm Tâm và sự thật về huyền thoại T.T.KH” (Văn thi sĩ tiền chiến, Nhà sách Khai Trí – Sài Gòn, 1970, mục 19, tr 14) về vấn đề này: “Để tôn-trọng thực- tế của những sự-kiện đã qua trong Lịch-sử hay trong Văn-học, để đừng xuyên-tạc những chuyện không có, phải nói ngay rằng tên T.T.Kh. không hề gợi một dư-luận nào ‘xôn xao’ ở thời điểm Tiền-chiến…”.
 
SỰ XÁC ĐỊNH CỦA NGUYỄN VỸ


Nguyễn Vỹ là một trong những nhà thơ tiên phong trong phong trào Thơ Mới. Năm 1970, khi Nguyễn Vỹ xuất bản cuốn Văn Thi Sĩ Tiền Chiến tại Sàigòn, thì ông đã đưa sự thực về Thâm Tâm và TTKh ra ánh sáng.
 
Như chúng ta đã biết, sau Phan Khôi, Nguyễn Vỹ cùng với Lưu Trọng Lư, Nguyễn Thị Manh Manh, Thế Lữ là những người đã phát triển phong trào Thơ Mới. Nguyễn Vỹ và Mộng Sơn lập trường phái Bạch Nga, chủ trương cách tân thơ, chú trọng đến khía cạnh âm nhạc và hình thức xếp chữ trong thơ. Trường phái Bạch Nga bị Thế Lữ và Hoài Thanh đả kích kịch liệt, thơ Nguyễn Vỹ không được tiếp nhận đúng mức. Đánh giá thơ Nguyễn Vỹ là một vấn đề khác mà chúng tôi không đề cập đến trong bài này. Nguyễn Vỹ là bạn thân của Lan Khai, Lưu Trọng Lư, Trương Tửu và trong cuốn Văn Thi Sĩ Tiền Chiến ông đã vẽ lại chân dung 35 nhà văn, nhà thơ sinh hoạt trong không khí văn học từ đầu thế kỷ đến 1945. Một tư liệu quý cho những người nghiên cứu văn học.
 
Sau hơn 30 năm im lặng, 1970, một năm trước khi mất, Nguyễn Vỹ đã công bố những lời tâm sự của Thâm Tâm 22 năm sau khi Thâm Tâm qua đời trong bài viết Thâm Tâm và sự thật về TTKh. mà chúng tôi xin lược trình sau đây:
 
Năm 1936, 37 có xuất hiện ở phố Chợ Hôm, ngoại ô Hà Nội, một nhóm văn sĩ trẻ với bút hiệu là Trần Huyền Trân, Thâm Tâm và một vài người nữa. Ít ai để ý đến họ. Huyền Trân và Thâm Tâm đều mới 18, 19 tuổi. Họ có một tờ tuần báo nhỏ, tên là Bắc Hà ở phố Chợ Hôm. Chủ động trên tờ báo là Trần Huyền Trân. Báo Bắc Hà bán không chạy lắm, tuy có vài mục hài hước, vui, nhờ mấy bức vẽ của Tuấn Trình. Thâm Tâm là bút hiệu của Tuấn Trình. Tuấn Trình vẽ nhiều hơn viết, thỉnh thoảng đăng một bài thơ, vài mẩu truyện ngắn. Đôi khi thấy xuất hiện trên mặt báo vài ba bài thơ có tính cách ca dao, ái tình của Nguyễn Bính học sinh lớp nhất trường tiểu học Hà Đông. Nguyễn Bính thi rớt, nghỉ học luôn.
 
Tôi - tức là Nguyễn Vỹ - tuy không chơi thân, nhưng quen biết Trần Huyền Trân khá nhiều vì anh ta ở trọ một căn nhà trong ngõ Khâm Thiên, phía sau chợ. Tôi ở một gác trọ của đường Khâm Thiên, gần Ô Chợ Dừa. Đôi khi Trần Huyền Trân nhờ tôi viết bài cho tuần báo Bắc Hà "cho vui" vì không có tiền nhuận bút. Để tỏ tình thông của văn nghệ, tôi có viết một truyện ngắn khôi hài, và chỉ có một lần.
Trong một số báo đặc biệt Mùa Hè, Tuấn Trình có vẽ một cặp Bạch Nga bơi trên Hồ Hoàn Kiếm và ghi ở dưới "Nguyễn Vỹ và Mộng Sơn".
Tôi quen biết Tuấn Trình là do Trần Huyền Trân giới thiệu. Nhà anh ở Chợ Hôm, cách chợ độ ba, bốn trăm thước. Anh đẹp trai, y phục lúc nào cũng bảnh bao, người có phong độ hào hoa, lịch thiệp. Tôi thấy ở Sàigòn có anh Hoàng Trúc Ly, nhà văn, na ná giống Tuấn Trình về dáng điệu cũng như tính tình, tư cách. Nhiều khi gặp Hoàng Trúc Ly trên đường Bonnard Sàigòn, tôi quên lững, cứ tưởng như gặp Tuấn Trình trên phố Chợ Hôm Hà Nội.
 
Một buổi chiều gần tối, Tuấn Trình đi lang thang gần chợ Khâm Thiên. Tôi từ Hà Nội về nhà, tôi tưởng anh đến Trần Huyền Trân, nhưng anh bảo: Thằng Huyền Trân nó đi đâu, không có nhà. Tôi rủ anh về gác trọ của tôi ở cuối phố. Hôm ấy, tôi có vài chục bạc trong túi, có thể làm một tiệc bánh giò chả lụa với Tuấn Trình. Tôi bảo anh ở lại ngủ với tôi cho vui. Đêm ấy cao hứng, Tuấn Trình ngà ngà say rượu Văn Điển, kể chuyện tình của anh với cô Khánh cho tôi nghe.
 


CÂU CHUYỆN TÌNH THEO LỜI KỂ CỦA THÂM TÂM
 
Trần Thị Khánh là một cô học trò lớp nhất trường tiểu học Sinh Từ. Thi hỏng, cô ở nhà giúp mẹ làm việc nội trợ. Nhà cô cũng ở đường Sinh Từ, ngay cạnh Thanh Giám, nơi đền thờ Khổng Tử.
 
Thanh Giám là một thắng cảnh Hà Nội, đã liệt vào cổ tích Việt Nam, xây cất từ đời nhà Lý, tu bổ cho tới đời nhà Lê, hình chữ nhật, xung quanh xây tường đá ong, cao độ hai thước Đền thì ở trong cùng, trước đền có Hồ Tròn, hai bên hồ có những tấm bia ghi tên các tiến sĩ đời nhà Lê. Vào Thanh Giám có cổng tam quan lớn, trước cổng có tấm bia đề hai chữ Hán "Hạ mã" và hai trụ cao. Trong vườn trồng rất nhiều cây cổ thụ và các cây kiểng, nơi đây rất yên tĩnh và mát mẻ, cũng là nơi các cặp trai gái hẹn hò tâm sự. Trước kia có một bầy quạ chiều tối bay về đây ngủ, cho nên người Pháp cũng gọi là Pagode des corbeaux. Chùa Quạ, ngoài danh từ lịch sử Temple de Confucius, Đền Khổng Tử.
 
Cô nữ sinh Trần Thị Khánh là một thiếu nữ đẹp. Tuấn Trình có một người cô, nhà ở phố Chợ Cửa Nam, gần Sinh Từ. Anh thường đến đây thăm cô và trông thấy cô Khánh đi chợ mỗi buổi sáng. Lúc ấy vào khoảng tháng 2 năm 1936, họa sĩ Tuấn Trình -tên gọi hồi đó- mới 19 tuổi, và cô Khánh 17 tuổi. Tuấn Trình mới bắt đầu vẽ và viết chút ít trong tờ tuần báo Bắc Hà của Trần Huyền Trân vừa xuất hiện.
Sau một vài tháng theo dõi, Tuấn Trình làm quen được với cô Khánh và gởi báo Bắc Hà tặng cô. Cô gái 17 tuổi, cảm mến người nghệ sĩ tài hoa, tình yêu chớm nở như cành hoa antigone trắng cũng vừa chớm nở trong tháng đầu hè trước sân nhà cô.
 
Antigone là loại hoa của người Pháp đem qua hồi đầu thế kỷ, không thơm nhưng đẹp. Nó là loại hoa dây, lá giống như lá nho, cho nên ở miền Nam nhiều người gọi là hoa nho. Có hai loại: hoa trắng và hoa hồng. Hoa nở vào đầu mùa hè thành những chùm rất dễ thương, nụ hoa giống hình trái tim nho nhỏ. Ở Hà Nội người ta trồng rất nhiều và bán cũng rất nhiều ở chợ Đồng Xuân, cũng như ở Chợ Hoa, bờ hồ Hoàn Kiếm. Cắm nó vào lọ để phòng khách, nó buông ra một vẻ lãng mạn, khả ái lắm. Người Bắc gọi tắt là hoa ty gôn. Ở phố Sinh Từ, antigone mọc rất nhiều, như trước sân nhà ông Nguyễn Văn Vĩnh và Nguyễn Nhược Pháp. Nhà trọ của Lưu Trọng Lư và Lê Tràng Kiều ở phố Hàm Long có cả một giàn hoa trắng và hồng. Nhưng mùa đông lá rụng, hoa tàn thì không cảnh nào tiêu sơ quạnh quẽ bằng.
 
Tình yêu của Tuấn Trình và Trần Thị Khánh chớm nở ngay lúc những chùm hoa antigone vừa hé nụ, và chết giữa mùa đông năm đó, trong lúc giàn hoa ty gôn úa tàn, rụng ngập đầy sân. Thời kỳ mơ mộng ngắn ngủi trong mấy tháng hè, sang hết mùa thu, không đem lại chút thỏa mãn nào cho tâm hồn khao khát của Tuấn Trình.
 
Chính lúc này Tuấn Trình lấy bút hiệu là Thâm Tâm. Một vài bài thơ tình thức đêm làm tặng cô Khánh. Những bài thơ đầu tiên đăng trên tuần báo Bắc Hà đều ký là Thâm Tâm, nhưng các tranh vẽ trong báo vẫn ký Tuấn Trình. Nhưng cô gái 17 tuổi, dè dặt, theo lễ giáo của gia đình, chưa thật bao giờ đáp ứng đúng với tình yêu tha thiết của Tuấn Trình Thâm Tâm.
 
Trong lúc những cặp tình nhân trẻ trung dắt nhau đi du ngoạn khắp nơi thơ mộng ở Hà Nội và ngoại ô, thì Trần Thị Khánh cứ phải từ chối những lời mời của Thâm Tâm. Cô thường nói: "Thầy mẹ em nghiêm lắm, gia đình em nghiêm lắm." Lần nào cô Khánh cũng lặp lại chữ nghiêm gia giáo ấy để trả lời kỳ vọng khát khao của người yêu.
 
Chỉ được hai lần Khánh đến nơi hẹn, nhưng không được lâu. Lần thứ nhất, một đêm trăng, Khánh lẻn băng qua đường vào vườn Thanh Giám. Tuấn Trình đã chờ người yêu nơi đây, dưới bóng cổ thụ. Nhưng cả hai cũng không nói được gì, Khánh run sợ. Tuấn Trình bối rối, tất cả những lời lẽ bay bướm đã sắp sẵn, bây giờ quên hết. Cuối cùng lại trách móc nhau vì những chữ "Thầy mẹ em nghiêm lắm" và rồi Khánh cũng vội vã chạy về nhà.
 
Lần thứ hai, vườn Thanh Giám đêm ấy cũng ngập ánh trăng thu. Nhiều người nói Thanh là Thanh Hóa, là hoàn toàn sai sự thật. Nhưng thái độ của Khánh lạ lùng, khó hiểu. Hình như Khánh muốn nói với Tuấn Trình một điều gì, nhưng ngại ngùng không nói. Rồi nàng buồn bã hỏi: "Anh định bao giờ đến xin thầy mẹ cho chúng mình ?" Chàng họa sĩ bối rối trước câu hỏi bất ngờ. Chàng lơ đễnh bảo: "Anh chưa nghĩ đến việc ấy, vì..." Câu chuyện bị bỏ dở nơi đây cho đến khi từ giã.
 
Hai người vẫn thư từ với nhau cho đến một hôm... Tuấn Trình nhận được bức thư của người yêu, không, của người đã hết yêu, báo tin nàng sắp lấy chồng. Thư viết bằng mực tím, trên bốn trang giấy học trò, xé trong một quyển vở Nam Phương Hoàng hậu (loại vở học trò rất thông dụng lúc bấy giờ).
 
Đại khái trong thư Khánh nhắc lại tình yêu "thơ mộng" của cô với "người nghệ sĩ tài hoa son trẻ", đó là những chữ cô dùng trong thư. Tình yêu rất đẹp, nhưng vì thầy mẹ của cô rất "nghiêm" theo lễ giáo, nên dù vị hôn phu của cô là một người chỉ mới biết sơ thôi nhưng cô vẫn có "bổn phận phải giữ tròn chữ hiếu", cô than thở đời cô khổ nên tình duyên ngang trái, cô khóc suốt đêm, v.v... Cuối thư ký tắt Kh.
 
Tuy Khánh không viết gì về vị hôn phu và ngày cưới, nhưng sau dọ hỏi, Tuấn Trình được biết chồng Khánh là một nhà buôn giàu có ở phố Hàng Ngang, 39 tuổi, đẹp trai, góa vợ và không có con. (Trong câu thơ bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi là chỉ sự cách biệt tương đối giữa tuổi 39 của người chồng và tuổi vị thành niên của Khánh). Tiệc cưới rất linh đình, rước dâu bằng 10 chiếc Citroën mới. Cô dâu đeo nữ trang rực rỡ, mặc chiếc áo màu đỏ tươi, lộng lẫy ngồi cạnh người chồng mặc áo gấm xanh.
 
Đêm trước hôm cô Khánh lên xe hoa, Thâm Tâm tổ chức tại tòa báo Bắc Hà một tiệc thịt chó, uống Mai quế lộ, mời Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính và Vũ Trọng Can tham dự. Họ say sưa ngâm thơ, làm thơ, cười đùa cho đến khuya rồi lăn ra ngủ trên đất.
 
Trái với mọi dự đoán, Khánh rất hạnh phúc với chồng. Người đau khổ là Tuấn Trình Thâm Tâm. Vừa nhớ thương đơn phận, vừa bị mặc cảm của người nghệ sĩ nghèo bị người yêu bỏ rơi, lại còn bị mấy thằng bạn chế nhạo, đùa bỡn, nhất là Vũ Trọng Can.
 
Vì một chút tự ái văn nghệ, Tuấn Trình đã thức suốt đêm, theo lời anh thuật lại, để làm bài thơ Hai sắc hoa ty gôn, ký tên TTKh, với thâm ý cho Trần Huyền Trân và Vũ Trọng Can tin là của Khánh làm ra để thương tiếc mối tình tan vỡ. Muốn giữ tính cách bí mật, Tuấn Trình nhờ cô em họ chép lại bài thơ trên, dán kín bao thơ và nhờ cô này mang thư đến tòa báo.
 
Tất nhiên là giọng thơ lãng mạn của Tuấn Trình hoàn toàn khác với lời tâm sự trong bức thư cuối cùng của Khánh báo tin sắp lấy chồng. Cô Khánh không biết làm thơ. Và theo lời Tuấn Trình, cô ghét những bài thơ của Thâm Tâm. Sau khi nhận được bức thư cuối cùng của Khánh, trong thư Khánh tỏ ý không bằng lòng Tuấn Trình đã mượn tên cô để làm thơ kể chuyện tình duyên cũ trên báo, có thể làm hại đến cuộc đời của cô. Trong lá thư phản đối đó, Khánh xưng tôi chứ không xưng em nữa.
 
Thâm Tâm lấy lại những lời, những chữ trách móc giận dữ của Khánh trong thư để làm Bài thơ cuối cùng ký tên TTKh, với những câu:
 
Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy
Mà viết tình em được ích gì ?
Bài thơ đan áo nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách xem.
Là giết đời nhau đấy biết không ?
Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
Giận anh em viết dòng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng.
Từ nay anh hãy bán thơ anh
Còn để yên tôi với một mình
 
Rồi để đáp lại Bài thơ cuối cùng, Thâm Tâm làm bài Dang dở tặng TTKh, cũng là bài thơ kết thúc niềm đau của mối tình dang dở:
 
Nhưng anh biết cái gì xưa đã chết,
Anh càng buồn càng muốn kết thành thơ,
Mộng đang xanh, mộng hóa bơ phờ,
Đây bài thơ chót kính dâng tặng bạn.
 

Huyền thoại Hai sắc hoa ti gôn, sở dĩ được những tên tuổi nổi tiếng của thi ca đương thời phụ hoạ và đứng vững lâu dài trong lòng người đọc, bởi nó chở những đớn đau chân thực của một người tình, dù viết dưới bàn tay trá hình Thâm Tâm. Và cũng nhờ tài năng của Thâm Tâm mà chúng ta có được hai hình tượng mới: người ấy và hoa ty gôn. Tính mơ hồ bóng gió của người ấy và cái chết thảm khốc của Antigone ẩn trong một chùm hoa nhỏ, xinh như mộng, càng làm tăng thêm chất bi đát thầm lặng của tình yêu, liệm thêm sự bí mật của những chữ T T KH.
 
                                                                   Tác giả: Thụy Khê
                                                           Copyright © Thụy Khuê 2008
 
* PHỤ LỤC
 
BÀI THƠ THỨ NHẤT – TTKh (2)
 
Thuở trước hồn tôi phơi phới quá
Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương
Nhưng nhà nghệ sĩ từ đâu lại
Êm ái trao tôi một vết thương.
 
Tai ác ngờ đâu gió lại qua
Làm kinh giấc mộng những ngày hoa
Thổi tan tâm điệu du dương trước
Và tiễn người đi bến cát xa.
 
Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
Yêu bóng chim xa nắng lướt mành.
 
Và một ngày kia tôi phải yêu
Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
Những cô áo đỏ sang nhà khác
Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều.
 
Từ đấy không mong không dám hẹn
Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm
Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ
Người ấy ghi lòng vẫn nhớ em.
Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên
 
Bỗng ai mang lại cánh hoa tim
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên.
Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
 
Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ
Tóc úa giết dần đời thiếu phụ
Thì ai trông ngóng chả nên chờ.
Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá
 
Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa:
“Cố quên đi nhé câm mà nín
Đừng thở than bằng những giọng thơ”.
Tôi run sợ viết lặng im nghe
 
Tiếng lá thu khô xiết mặt hè
Như tiếng chân người len lén đến
Song đời nào dám gặp ai về.
Tuy thế tôi tin vẫn có người
 
Thiết tha theo đuổi nữa than ôi
Biết đâu tôi một tâm hồn héo
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi.
 
 
ĐAN ÁO CHO CHỐNG – TTKh (3)
 
Chị ơi, nếu chị đã yêu
Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương
Đã xa hẳn quãng đời hương
Đã đem lòng gửi gió sương mịt mùng
Hay chăng chị mỗi chiều đông
Đáng thương những kẻ có chồng như em
Vẫn còn giá lạnh trong tim
Đan đi đan lại áo len cho chồng
Con chim ai nhốt trong lồng
Hạt mưa nó rụng bên sông bơ thờ
Lưng trời nổi tiếng tiêu sơ
Hay đâu gió đã sang bờ ly tan
Tháng ngày miễn cưỡng em đan
Kéo dài một chiếc áo lam cho chồng
Như con chim nhốt trong lồng
Tháng ngày than tiếc ánh hồng nơi nao
Ngoài trời hoa nắng xôn xao
Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm
Ai đem lễ giáo giam em
Sống hờ hết kiếp trong duyên trái đời
Lòng em khổ lắm chị ơi
Trong bao ngờ vực với lời mỉa mai
Quang cảnh lạ, tháng năm dài
Đêm đêm nằm tưởng ngày mai giật mình.
 
 
BÀI THƠ CUỐI CÙNG – TTKh (4)
 
 
Anh hỡi, tháng ngày xa quá nhỉ ?
Một mùa thu cũ một lòng đau...
Ba năm ví biết anh còn nhớ,
Em đã câm lời có nói đâu!
 
Đã lỡ thôi rồi chuyện biệt ly,
Càng khơi càng thấy lụy từng khi
Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy
Mà viết tình em được ích gì?
 
Chỉ có ba người đã đọc riêng
Bài thơ "đan áo" của chồng em
Bài thơ "đan áo" nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách xem...
 
Là giết đời nhau đấy biết không ?
... Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
Giận anh, em viết dòng dư lệ,
Là chút dư hương điệu cuối cùng!
 
Từ nay anh hãy bán thơ anh
Còn để yên tôi với một mình
Những cánh hoa lòng, hừ! đã ghét
Thì đem mà đổi lấy hư vinh.
 
Ngang trái đời hoa đã úa rồi,
Từng mùa gió lạnh sắc hương rơi...
Buồng nghiêm thờ thẩn hồn eo hẹp
Đi nhớ người không muốn nhớ lời!
 
Tôi oán hờn anh mỗi phút giây,
Tôi run sợ viết, bởi rồi đây,
Nếu không yên được thì tôi... chết
Đêm hỡi, làm sao tối thế này ?
 
Năm lại năm qua cứ muốn yên
Mà phương ngoài gió chẳng làm quên;
Và người vỡ lỡ duyên thầm kín
Lại chính là anh? anh của em!
 
Tôi biết làm sao được hỡi trời?
Giận anh không nỡ nhớ không thôi!
Mưa buồn mưa hắt trong lòng ướt...
 Sợ quá đi, anh... "có một người"!…
 
 
GỬI T T KH – Thâm Tâm (5)
 
Các anh hãy uống thật say,
Cho tôi những cốc rượu đầy rồi im
Giờ hình như quá nửa đêm ?
Lòng đau đem lại cái tin cuối mùa
 
Hơi đàn buồn như trời mưa
Các anh tắt nốt âm thừa đi thôi
Giờ hình như ở ngoài trời
Tiếng xe đã nghiến đã rời rã đi.
 
Hồn tôi lờ mờ sương khuya
Bởi chưng tôi viết bài thơ trả lời
Vâng, tôi biết có một người
Một đêm cố tưởng rằng tôi là chồng
 
Ðể hôm sau khóc trong lòng
Vâng tôi có biết cánh đồng thời gian
Hôm nay rụng hết lá vàng
Và tôi lỡ chuyến chiều tàn về không.
 
Tiếng xe trong vết bụi hồng
Nàng đi thuở ấy nhưng trong khói mờ.
Tiếng xe trong xác pháo xưa,
Nàng đi có bốn bài thơ trở về.
 
Tiếng xe mở lối vu qui
Nay là tiếng khóc nàng chia cuộc đời !
Miệng chồng Khánh gắn trên môi
Hình anh mắt Khánh sáng ngời còn mơ.
 
Từ ngày đàn chia đường tơ
Sao tôi không biết hững hờ nàng đan.
Kéo dài một chiếc áo len
Tơ càng đứt mối, nàng càng nối giây.
 
Nàng còn gỡ mãi trên tay
Thì tơ duyên mới đã thay hẳn màu.
Góp hai thứ tóc đôi đầu,
Sao còn đan nối những câu tâm tình ?
 
Từng năm từng đứa con non
Mỉm cười vá kín vết thương lại lành.
Khánh ơi còn hỏi gì anh?
Xưa tình đã vỡ, nay tình lại nguyên
 
Em về đan mối tơ duyên
Vào tà áo mới, đừng tìm duyên xưa.
Bao nhiêu giọt lệ còn thừa,
Hãy dành mà khóc những giờ vị vong.
 
Bao nhiêu giọt lệ còn thừa,
Hãy dâng cho trọn nghĩa chồng, hồn cha.
Nhắc làm chi chuyện đôi ta
Cuộc đời anh đã phong ba dập vùi...
 
Hãy vui lên các anh ơi
Nàng đi, tôi gọi hồn tôi trở về
Tâm hồn lạnh nhạt đêm nghe
Tiếng mùa lá chết đã xê dịch chiều
 
Giờ hình như gió thổi nhiều
Những loài "hoa máu" đã gieo nốt đời.
Bao nhiêu nghệ sĩ nổi trôi
Sá chi cái đẹp dưới trời mong manh ?
 
Sá chi những chuyện tâm tình
Lòng đau đem chứa trong bình rượu cay.
 
-------------
 
(1) Hai sắc hoa ty gôn - TTKH (Tiểu thuyết thứ bảy, số 179, 30/10/1937)
(2) Tiểu thuyết thứ bảy, số 182 ra ngày 20-11-1937)
(3) Phụ nữ thời đàm
(4) Tiểu thuyết thứ bảy, số 217, 23/07/1938)
(5) Tiểu thuyết thứ bảy, số 307, 04/05/1940)

15 nhận xét:

QUANG THÁI nói...

Qua thăm BÂNG KHUÂNG đọc bài viết về Tác giả bí ẩn TTKh là ai ? cũng tổng hợp được nhiều những giả thiết về tác giả bí ẩn này … Tôi cũng đã đọc cả 4 bài thơ của tác giả từ rất lâu rồi .... và những bình luận của nhiều tác giả .. và báo Thanh Niên ngày xưa … Và tôi cũng thấy Tác giả Bí ẩn TTKh này là Trần Thị Khánh vợ của Nguyễn Hữu Có ( Chính quền Sài gòn ngày xưa ) không biết có đúng không ? chúc Anh luôn vui khỏe

Bâng Khuâng nói...

Còn đây là bài viết của Bùi Viết Tân (đăng trong Tạp chí Văn nghệ kháng chiến số tháng 5 năm 1951): “Cuối năm 1949, trong một chuyến đi dài ngày từ Liên Khu 3 lên Việt Bắc, tôi có dịp đồng hành với thi sĩ Thâm Tâm (Nguyễn Tuấn Trình)… chúng tôi là những người lữ hành ngày nghỉ, đêm đi. Trong lúc nghỉ ngơi anh Thâm Tâm thường tâm sự với tôi những chuyện tâm tình liên quan với thơ. Chẳng hạn chuyện nhân vật gây nguồn cảm hứng để anh sáng tác bài thơ nổi tiếng “Tống Biệt Hành” là một người tên Phạm Quang Hòa, trước 1945 thoát ly gia đình ra đi lên chiến khu làm cách mạng. Tôi đã hỏi anh Thâm Tâm, nhân vật Phạm Quang Hòa ở đâu, còn sống không? Anh Thâm Tâm cho biết Phạm Quang Hòa ra đi & trở về & đang tiếp tục cuộc sống của một người trai thời loạn. Nhân vui chuyện, tôi có hỏi anh Thâm Tâm về chuyện những bài thơ ký tên T.T.Kh.
- Theo ý ông thì những bài thơ này của ai?
- Người ta nói là của người tình Thâm Tâm. Phải vậy không anh?
- Ông có đọc bài thơ ký tên Thâm Tâm đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy số 307, ra ngày 4 tháng 5 năm 1940 chứ?
- Đã có đọc, có phải bài “Các Anh” không nhỉ?
- Đúng thế, tất cả đều liên quan tới một chuyện tình, nhưng thật ra thì những bài thơ ký tên T.T.Kh là do mình sáng tác ra cả thôi.
- Như vậy là Nguyễn Bính cũng bị vào “xiếc” trong câu chuyện này?
- Chuyện này chỉ có mình & Trần Huyền Trân biết thôi. Nguyễn Bính là một nhà thơ tài hoa nhưng “ngây thơ” lắm.
- Câu chuyện này có liên quan gì tới đất Thanh Hóa không anh?
- Địa danh vườn Thanh trong thơ là nói tới đất Thanh Miện ở Hải Dương, quê hương của trái vải. Nhưng Nguyễn Bính lầm tưởng là Thanh Hóa… do đó mới có chuyện vui vẻ.
- Tại sao anh sáng tác những bài thơ ký tên T.T.Kh hay như vậy mà lại không làm loại thơ này nữa?
- Vào những năm cuối thập niên 30 bắt đầu thập niên 40, bọn mình tìm ra lối thoát cho cuộc đời & muốn làm một cuộc đổi đời. Chính bài “Các Anh” rồi sau đó là bài “Tống biệt Hành” là chứng tích của sự đổi thay này…”

https://chauvanng.wordpress.com/2013/11/11/kham-pha-bi-an-ai-la-t-t-k-h/

Bâng Khuâng nói...

Gần đây nhất, ngược lại với Nguyễn Vỹ & Bùi Viết Tân thì tác giả Hoàng Tiến (bài đăng trên tuần báo văn nghệ cuối năm 1989) lại viết như sau: “…Ông Hoài Thanh năm 1941 có soạn cuốn Thi Nhân Việt Nam( xuất bản năm 1942, tác phẩm trên là của hai ông, còn Hoài Chân nữa chứ không phải chỉ một mình Hoài Thanh. Tên lần xuất bản đầu tiên là Việt Nam Thi Nhân Tiền chiến, những lần tái bản sau mới có tên gọi Thi Nhân V.N & bổ xung thêm một số nhà thơ khác xuất hiện vào cuối thời kỳ tiền chiến)cũng trích dẫn T.T.Kh với ghi chú: “sau khi bài thơ kia đăng rồi,xóm nhà văn bỗng xôn xao, có đến mấy người nhất quyết T.T.Kh chính là người yêu của mình & người ta đã phê bình rất náo nhiệt. Có kẻ không ngần ngại cho những bài ấy là những áng thơ kiệt tác”. Hôm nay, xin công bố với bạn đọc một thông tin chúng tôi được biết về T.T.Kh, người kể còn sống,mà cách đây bốn năm vẫn còn gặp chúng tôi thấy cần phải công bố ngay vì nó có lợi cho việc làm văn học sử sau này. Số là vào dịp hội Đền Bà Tấm năm nay (Kỷ tỵ 1989) chúng tôi rủ nhau sang Phú Thụy dự hội. Cùng đi có nhà thơ Lương Trúc thuộc lớp nhà thơ trước C.M tháng tám, năm nay đã 74 tuổi (tên thật là Phạm Quang Hòa) bạn thân với các nhà thơ Thâm Tâm, Nguyễn Bính & Trần Huyền Trân… Nhà thơ Lương Trúc là người cung cấp tư liệu & tất nhiên ông sẽ sẵn sàng chịu trách nhiệm về Họ, Tên tác giả “Hai sắc hoa Tigôn” được công bố dưới đây. Cùng nghe hôm đó với tôi có nhà thơ Trần Lê Văn & nhà thơ Tú Sót. T.T.Kh tên thật là Trần Thị Khánh, người yêu của Thâm Tâm. Hai người yêu nhau nhưng biết không lấy được nhau, hẹn giữ kín mối tình, để đỡ phiền đến gia đình của nhau sau này. Cô Khánh đọc Tiểu thuyết thứ bảy in truyện ngắn “Hoa Tigôn” của Thanh Châu… xúc động tự thổ lộ câu chuyện riêng (qua) bài thơ “Hai sắc hoa Tigôn” & gửi đăng Tiểu thuyết thứ bảy… Tiếp đó để giải thích lý do viết bài thơ “Hai sắc hoa Tigôn” cô Khánh gửi đến một bài nữa với tiêu đề là “Bài thơ thứ nhất” & viết riêng tặng Thâm Tâm “Bài thơ đan áo”. Lại càng xôn xao, nhiều người cho là nam giới giả danh, nhiều người nhận ra người yêu của mình, trong số đó có Nguyễn Bính. Thâm Tâm hồi đó còn trẻ, với tính hiếu thắng của tuổi trẻ ông đã gửi báo Phụ nữ đăng “Bài thơ đan áo” để minh chứng với thiên hạ rằng T.T.Kh chính là người yêu của mình. Tất nhiên là không có sự đồng ý của T.T.Kh & thế là T.T.Kh giận. Cô viết bài thơ lấy tiêu đề là “Bài thơ cuối cùng”… Sau này Thâm Tâm có viết bài thơ “Các Anh” để trả lời T.T.Kh…”

https://chauvanng.wordpress.com/2013/11/11/kham-pha-bi-an-ai-la-t-t-k-h/

Bâng Khuâng nói...

Còn nhiều nữa những “Tác Phẩm” những bài viết tương tự nhằm cố sống, cố chết ghép bằng được cho Thâm Tâm phải là T.T.Kh hay chí ít T.T.Kh cũng phải là “Người Tình” của Thâm Tâm hay Nguyễn Bính (công bằng mà nói, Nguyễn Bính chỉ “bị” ghán ghép ở giai đoạn đầu của “nghi án” này mà thôi) đó là còn chưa kể lực lượng báo “lá cải” nhiều vô số ăn theo câu chuyện này nhất là ở Miền Nam trước năm 1975. Ở đây chỉ lược trích ba “tác phẩm” tiêu biểu & được nhiều người bám lấy nhất để “minh chứng” cho nhận định của họ về bí ẩn văn chương này suốt hơn 70 năm qua.

https://chauvanng.wordpress.com/2013/11/11/kham-pha-bi-an-ai-la-t-t-k-h/

Bâng Khuâng nói...

Năm 1994, hai ông Thế Phong và Nhật Thu dưới bút danh Thế Nhật xuất bản sách “T.T.Kh Nàng Là Ai” được nhà xuất bản Văn hóa - thông tin in năm 1994. Cuốn sách trên cho rằng bà Trần Thị Vân Chung là TT Kh. “Chung” nghe như “Khánh”. Trần Thị Vân Chung có phải là Trần Thị Khánh hay là TTKh? Xôn xao dư luận nổi lên. Tiếng tăm lan đến nước Pháp. Bà Vân Chung gởi về thư ngỏ. Trong thơ bà phủ nhận bà là T. T. Kh. Dư luận lại lắng xuống.
Khoảng năm 2004 Trần Đình Thu (TĐT) viết sách “Giải mã TT Kh là ai”. TĐT không theo lối cũ dựa vào con người biết chuyện kể lại để xác định TTKh là ai mà đi nghiên cứu, phân tích 4 bài thơ ký tên TTKh cùng truyện ngắn “Hoa Tigon” (năm 1937) và tùy bút “Những Cánh Hoa Tim” (1939) của Thanh Châu. So với văn thơ và thân thế của Trần Thị Vân Chung, logic, TĐT quả quyết Vân Chung là TTKh, Thanh Châu là nhân vật nam trong câu chuyện tình.
Bất chấp những luận điểm chứng minh TT Kh là Trần Thị Vân Chung, những người trong cuộc chưa bao giờ thừa nhận điều này. Ngay trong tuỳ bút “Những Cánh Hoa Tim” viết năm 1939, nhà văn Thanh Châu đã nhất mực khẳng định mình không liên quan đến TT Kh. Cho đến tận cuối đời, dù nhiều người dò hỏi, ông vẫn không một lần thừa nhận bà Vân Chung chính là TT Kh. Tương tự, bà Vân Chung cũng luôn khẳng định mình không phải là TT Kh và không liên quan gì đến chuyện tình của những cánh hoa Ti-gôn. Bà Vân Chung đã có thư từ Pháp về, phản ứng gay gắt.

Bâng Khuâng nói...

Dàn dựng xong thì cả hai tiền bối và hậu bối… lãnh đủ:
a. “Tiền bối” Thế Phong nhớ lại trong tùy bút của mình:

Trên (newvietart.com): Về cuốn “T.T.KH – Nàng là ai?”: “khen thì ít mà chửi thì nhiều”.

– Thanh Hải
“Báo Pháp luật TP HCM ra ngày 18/3/2007 VỤ “KIỆN” TTKH-NÀNG LÀ AI?: “Năm 1994, cuốn sách TTKh – nàng là ai? cuả tác giả Thế Nhật gây xôn xao dư luận vì đã giải mã bí mật về nhân thân của tác giả TTKh. Qua lời kể của bà Thư Linh (bạn của một phụ nữ tên trần Thị Vân Chung), nhà văn Thế Phong khẳng định TTKh chính là TTKh (sinh năm 1919 tại Thanh hoá, sống tại Pháp). Sau khi sách in ra, bà Vân Chung đã gửi thư tới Bộ Văn hoá-Thông tin, NXB Văn hoá-Thông tin, tác giả Thế Nhật và bà Thư Linh để phủ nhận mình là TTKh. Bà Vân Chung tỏ ra bức xúc và khẳng định: Nếu có mặt ở VN, bà sẽ kiện bà Thư Linh về tội vu khống vì “miêu tả sự sỗ sàng của người đàn bà có chồng mà còn có cử chỉ vô luân tồi bại” với người khác. Vụ khiếu nại của bà Vân Chung đối với cuốn sách trên gây xôn xao dư luận báo chí suốt một thời gian dài rồi tạm khép lại”.

– NTK
“Thái độ côn đồ trong văn nghệ” (sđd) cho rằng Thế Phong viết “T.T.KH., Nàng là ai? để vu khống và lừa độc giả”.
– T.T.Kh?! Trần Thị Vân Chung phản đối: “Điều trước nhất tôi xin thưa: ‘Tôi không phải là T.T.Kh! Dưới đây tôi xin nêu rõ từng điểm sai trái, bịa đặt trong cuốn T.T.KH nàng là ai?” (sđd tr 160).

https://traixuviet.wordpress.com/2009/09/26/hai-s%E1%BA%AFc-hoa-tigon-ph%E1%BA%A7n-2-2/

Bâng Khuâng nói...

b. “Hậu bối” TĐT theo gương cha chú cũng “hưởng phúc lợi’ như chú cha:
– Việt Duy:
“Giải mã nghi án T.T.Kh.” của Trần Đình Thu – chưa rõ đúng sai nhưng chắc là phạm luật” (Paris, 20.3.2007, newvietart.com):
“… cái tên T.T.KH vẫn còn là một nghi vần để hôm nay, năm 2007, người ta lại có dịp được “thưởng thức” tài “giải mã” văn (g) học của nhà giải mã Trần Đình Thu mà ngay trang bìa 4 cuốn sách với những hàng chữ: ‘Năm 1994 một người cung cấp cho ông Thế Phong một thông tin mật”: T.T.Kh chính là bà Trần Thị Vân Chung hiện sống ở Pháp. Thông tin ngắn ngủi và không có bằng chứng nhưng ông Thế Phong đã viết thành một cuốn sách với tựa đề hấp dẫn: T.T.Kh nàng là ai? Khi cuốn sách phát hành, bà TT Vân Chung công khai phủ nhận, cho rằng mình không phải là T.T.Kh.
Năm 2004, tác giả Trần Đình Thu lật giở toàn bộ tư liệu liên quan để xem lại. Thật bất ngờ (ông TĐT chỉ cần lật giở toàn bộ tư liệu đã có sẵn là giải mã ngay chóc! tài thật) khi kết quả giải mã cuả ông trùng khớp với thông tin được tiết lộ trước đây. (thông tin nào trước đây, thưa ông TĐT?) “T.T.Kh chỉ có thể là Trần thị Vân Chung “Đó chính là những gì được trình bầy trong sách bạn cầm trên tay – (Sách do NXB Văn hoá Saì Gòn và Cty Cadasa thực hiện xuất bản, phát hành tại Tp HCM qúy 1/2007. Sách dầy 192 trang, khổ 13x19cm, giá bán 23000 VNĐ – “tác giả” Trần Đình Thu).
Chỉ với những dòng chữ trên đây người đọc đã cảm thấy có điều gì rối rắm mập mờ trong công cuộc “giải mã vĩ đại “của nhà giải mã TĐT: lập luận ở trên thì vào năm 1994 với Thông tin ngắn ngủi và không có bằng chứng nhưng ông Thế Phong đã viết thành một cuốn sách với tựa đề hấp dẫn: T.T.Kh nàng là ai? nhưng lập luận ở dưới: Năm 2004 (1994-2004), tác giả Trần Đình Thu lật giở toàn bộ tư liệu liên quan để xem lại…. (hồ sơ tư liệu nào để ông lật giở thưa ông TĐT ??? phải chăng là hồ sơ tư liệu lấy từ “thông tin ngắn ngủi và không có bằng chứng” trong phần Phụ Lục quyển sách T.T.K.H NÀNG LÀ AI ? của – Thế Nhật – NXB Văn Hoá Thông Tin Hà Nội 1994). Sự luộm thuộm, dấu đầu hở đuôi trong công trình giải mã, lật giở hồ sơ tư liệu cuả ông TĐT lại thấy trong một bài “TỰ HỎI rồi TỰ ĐÁP” của chính ông TĐT… Khi đọc bài HỎI và ĐÁP trên người ta nhận ngay được nhà giải mã T.Đ.T đã “GIẢI MÔ thật vô cùng “vất vả” với những gì đã được ông Thế Phong “dọn sẵn cỗ” cho ông rồi và ông chỉ cần sao chép lại thêm thắt vài việc (chẳng lẽ lại chép tuốt hết sách của ông Thế Phong thì coi kỳ qúa xá!) rồi làm cách nào để ngụy trang những gì sao chép không quá gây sốc, để không không thể chịu đựng nổi.

“CUỐN SÁCH THỨ HAI VỀ TTKH: “Sau một thời gian dài bị nhiều nhà xuất bản từ chối vì ngại xảy ra vụ kiện tương tự, mới đây (tháng 2-2007), cuốn” Giãi mã nghi án văn học TTKh” cuả Trần Đình Thu đã được NXB Văn hoá Sài Gòn cho in. Tác giả TĐThu cũng khẳng định bà Vân Chung chính là “nghi can số một” trong” nghi án văn học” này vì bà Vân Chung có nhân thân giống TTKh đến mức kỳ lạ. Để chứng minh lập luận trên, ông TĐThu đã trích dẫn một số bài thơ của bà Vân Chung (do bạn bè cuả bà V Chung cung cấp) để độc giả có sự sánh về phong cách thơ của bà V Chung với TTKh. Tác giả nhắc lại ngày sinh, quê quán, gia cảnh, cha mẹ cùng thân thế của chồng bà Vân Chung để khẳng định bà là người có nhân thân phù hợp nhất với TTKh. Ngoài ra tác giả cũng có nêu rõ hoàn cảnh quen nhau giữa bà Vân Chung và người tình cũ, lý do hai người chia tay… Bìa trong cuốn sách còn in ảnh bà Vân Chung và chú thích rõ: “bà T T V Chung thời còn trẻ (…). đây là người được khẳng định là TTKh”.
XÂM PHẠM BÍ MẬT ĐỜI TƯ:
Sách ra xong, bà Vân Chung lần nữa lại gửi thư phản đối, nói rằng không thể coi sách là tài liệu văn học, vì đã nêu tên tuổi, đưa hình ảnh, chà đạp lên đời sống cá nhân mà không xin ý kiến của người trong cuộc.

https://traixuviet.wordpress.com/2009/09/26/hai-s%E1%BA%AFc-hoa-tigon-ph%E1%BA%A7n-2-2/

Bâng Khuâng nói...

Mới đây mới rộ lên nguồn tin:

TÁC GIẢ BÀI THƠ "HAI SẮC HOA TI GÔN" LÀ BÀ PHẠM THỊ LÝ (1922 - 2002?)
Bà Viên thị Thuận - luật sư, người được phóng viên báo Vietnamnet hỏi chuyện- cho biết học sinh nữ từ các tỉnh miền Bắc về học tập tại trường nữ Đồng Khánh - Hà Nội (trường lập năm 1917), phần lớn là con gái gia đình trung lưu, có địa vị trong xã hội.
Thời gian bà Thuận học năm 3 ở trường Đồng Khánh, có người bạn rất xinh đẹp, tên là PHẠM THỊ LÝ sinh năm 1922, quê ở Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
Người bạn này là hoa khôi trường Đồng Khánh - Hà Nội.
Gia đình muốn bà lấy một người chồng bà không có tình cảm, trong khi có thể bà đã có người "thầm yêu trộm nhớ".
Vốn có tâm hồn đa sầu, đa cảm, khi phải lấy người mình không yêu, bà Lý rất buồn bã.
Và bà Phạm Thị Lý đã sáng tác bài thơ 'Hai sắc hoa ti gôn' gửi đăng báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy vào tháng 9 năm 1937 với bút danh TTKH để giấu tên.
Bà Lý không ngờ bài thơ được mình sáng tác trong cái giây phút ngẫu hứng lại trở nên nổi tiếng cho đến ngày nay.
Hôm đó, bà Lý cùng bà Viên thị Thuận đến tòa soạn gửi bài thơ rồi đi thẳng nên chẳng ai tìm được tác giả".
Bà Thuận cũng cho biết thêm: “Trước khi gửi đăng báo, bà Lý từng đọc cho các bạn trong lớp nghe…”.
......
Dù cuộc hôn nhân là “ép buộc”, cuộc đời bà Phạm thị Lý lại vô cùng hạnh phúc. Vì thế, những cảm xúc đầu đời cùng bài thơ "Hai sắc hoa ti gôn" được bà Lý cất gọn trong kí ức.
Vợ chồng bà sinh được 10 người con, sau này bà theo chồng sang Mỹ định cư và mất ở tuổi 80...
*
(1) Những thông tin này trích lấy từ một bài báo trên Vietnamnet cuối tháng 5 năm 2017, báo Hà Nam Điện Tử đăng lại ngày 04/6/2017.

Bâng Khuâng nói...

BÀ TRẦN THỊ VÂN CHUNG VIẾT THƯ TRẢ LỜI CÁC ÔNG THẾ NHẬT, TÁC GIẢ CUỐN “TTKH – NÀNG LÀ AI ?”

Cuốn sách “TTKH- nàng là ai?” đã tới tay tôi ngày 28-9- 94, do nữ sĩ Thư Linh gửi.

Đọc xong cuốn sách, tôi nhận thấy đây chỉ là chuyện mơ hồ, hư cấu, do sự tưởng tượng của nữ sĩ Thư Linh. Người cung cấp tài liệu giả tưởng cho tác giả Thế Nhật. Chỉ là một thứ tiểu thuyết, không thể coi như một tài liệu văn học, như quí vị mong muốn.

Bởi vì, đã gọi là tài liệu văn học, thì sự việc và nhân vật phải cho thật đích xác. Cuốn sách đã nêu đích danh tôi: Vân Nương- Trần thị Vân Chung, nên tôi gửi thư này tới quí vị, lên tiếng đính chính những điều sai trái, nhầm lẫn trong cuốn “TTKH - nàng là ai ?”

Chỉ tiếc hành động của quí vị đã quá hấp tấp (nếu không muốn nói là quá sơ xuất!). Vì theo thông lệ, trước khi xuất bản một cuốn sách thuộc về tài liệu văn học, gọi đích danh đương sự, nêu hình ảnh, chà đạp lên đời sống cá nhân v.v... quí vị cũng nên thận trọng trong hành động, phải lắng nghe ý kiến của cả 2 bên. Quí vị có thể liên lạc thẳng với tôi xem thực hư ra sao, để tránh những lỗi lầm tai hại.

Điều trước nhất tôi xin thưa: 'Tôi không phải là TTKH !'

(còn tiếp)

Bâng Khuâng nói...

BÀ TRẦN THỊ VÂN CHUNG VIẾT THƯ TRẢ LỜI CÁC ÔNG THẾ NHẬT, TÁC GIẢ CUỐN “TTKH – NÀNG LÀ AI ?”
(tiếp theo)

Dưới đây, tôi xin nêu rõ từng điểm sai trái, bịa đặt trong cuốn TTKH - nàng là ai ?'

1- Trong sách viết chúng tôi làm đám cưới năm 1934. Tôi sinh năm 1919, nếu lấy chồng năm 1934, tôi mới 15 tuổi hay sao ? Trong sách viết tôi gặp ông Thanh Châu năm 17 tuổi, sao mâu thuẫn vậy ? Sao quá vụng tính toán cho thời gian không ăn khớp với nhau !

2- Chúng tôi hơn nhau 3 tuổi. Nhà tôi tuổi Bính thìn (1916), tôi Kỷ mùi
(1919), sao lại viết hơn nhau 9 tuổi ? Có lẽ (tác giả) muốn chứng minh cho đúng thời gian xuất hiện thơ TTKH vào năm 1937, và, cho hợp với câu thơ
' Tóc úa giết dần đời thiếu phụ ' và ' Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi' chăng ?

3- Nói về gia đình tôi, cũng không đúng ! Bố tôi không làm quan (cũng như khi làm đám cưới, nhà tôi chưa là ' quan huyện' !). Chúng tôi có 8 anh em ( 3 trai 2 gái) chứ không phải 5 người. Tôi là thứ 3, không phải trưởng nữ, thế nên, tôi đã có bút hiệu Tam Nương.

4- Tôi không viết bút ký, hay có thơ đăng báo' Ngôn luận' trước 1975, cũng như bút hiệu Lê phương Đông, chứ không phải là Lê đông Phương.

5- Nhà tôi bị chính phủ Ngô đình Diệm bắt giam tại khám Chí hòa 3 năm
(1960-1963), chứ không bị đày đi Côn đảo.
6- Năm 1976, tôi vẫn ở cư xá Nông tín, đường Trương minh Ký(cũ), tứ năm 1972 đến 1982. Mãi tới năm 1980, nhà tôi đi cải tạo về, chúng tôi có giấy xuất cảnh, mới bán nhà, dọn về ở nhờ nhà chị Mộng Tuyết, đường Nguyễn minh Chiếu (cũ) vào năm 1982.
7- Câu chuyện (chị Thư Linh và tác giả Thế Nhật) tạo dựng vào năm 1976, ông Thanh Châu gặp tôi ở nhà em Minh (vợ nhà thơ Hà thượng Nhân) cũng hoàn toàn thêu dệt, vu khống. Sự sỗ sàng của người đàn bà có chồng rồi mà còn có cử chỉ vô luân, tồi bại, như đã miêu tả trong cuốn sách 'TTKH- nàng là ai ?' (từ tr. 54 tới 65), nếu, chúng tôi có mặt tại quê nhà, [thì] đã đưa ra tòa, kiện về tội mạ lỵ và vu khống.
8- Vì, sự thật, năm 1976 ông Thanh Châu vào Nam có nhờ cô em họ tôi dẫn tới thăm, gặp tôi ở nhà cư xá Nông tín, đường Trinh minh Ký (cũ). Cuộc thăm gặp này chỉ có tính cách như 2 người bạn cũ gặp lại, với sự hiện diện của cô em họ, rất đàng hoàng, đứng đắn. Vì trải qua 40 năm, cả hai bên đều đã an phận từ lâu , cả hai bên đều có bổn phận với gia đình mình. Hơn nữa, ông [Thanh Châu] cũng là bạn thân của ông anh ruột tôi, từ hồi còn ở Thanh hóa. Tôi còn gặp ông [ta] một lần nữa tại nhà anh chị tôi- khi ông đến chào để vế Bắc. Như vậy, tôi nghĩ đâu có gì để đáng nói, khi, coi nhau như bạn.
9- Bôi nhọ nhà tôi, đúng là người chết rồi, vẫn, không được buông
tha:
' ... Bà cũng nhớ đến ngày phu quân mê một nữ thư ký ở văn phòng luật sư, nơi ông làm việc...' . (TTKH- tr. 60-61).

(CÒN NỮA)

Bâng Khuâng nói...

BÀ TRẦN THỊ VÂN CHUNG VIẾT THƯ TRẢ LỜI CÁC ÔNG THẾ NHẬT, TÁC GIẢ CUỐN “TTKH – NÀNG LÀ AI ?”
(tiếp theo)

Tôi xin thưa:
'Trước sau văn phòng luật sư của nhà tôi, chỉ có 2 cô nữ thư ký: một cô là phật tử trong gia đình phật tử chùa Quán Sứ, Hànội. Khi vào Nam, cô đã là huynh trưởng của 4 đứa con chúng tôi, trong gia đình phật tử chùa Phước hòa, Sài Gòn vào thời gian đó. Vài năm sau, cô đi lấy chồng; nên, đã thay thế con gái của một người bạn chúng tôi, và, cũng là bạn chơi phong lan của nhà văn Nhất Linh-Nguyễn tường Tam - một gia đình nho phong ngoài Bắc, vào Nam nắm 1954 - và tuy làm thư ký văn phòng- chúng tôi vẫn coi 2 cô như con, cháu trong nhà.

Tóm lại tất cả 9 điểm kể trên (sách [TTKH], viết)

- Đều không đúng trường hợp và con người thật của tôi.
- Chứng tỏ chị [Thư Linh] đã cung cấp 'tài liệu giả tưởng' cho tác giả Thế Nhật, để, gán ghép tôi làTTKH- một nữ sĩ thời danh đã có những vần thơ trác tuyệt, đã được sự cảm phục, của tất cả người Việt nam ưa chuộng văn chương, suốt hơn nửa thế kỷ nay. ( trong đó có cả tôi nữa) - với mục đích gì ?
- Vì danh, lợi chăng ? Nhưng thật đáng tiếc, đạo lý và lương tâm, đã không cho phép tôi nhận ẩu, vì, mạo danh một nữ sĩ nổi tiếng, cũng như đạo văn, là một tội xấu xa nhất trong văn giới.

Cho nên, một lần nữa, tôi phủ nhận tôi là TTKH !...
Mong trả lời từng điểm một cho minh bạch.

Vân nương - Trần thị Vân Chung
VIẾT TẠI PHÁP, NGÀY 4 NOVEMBRE, 1994.

http://thang-phai.blogspot.com/2018/02/thu-nam-27-thang-2-2014-t.html

Bâng Khuâng nói...

Ông Trần Đình Thu viết:

Thơ T.T.Kh hiện đại từ ngôn ngữ cho đến hình ảnh. Nhà văn Thanh Châu đã bỏ công tìm hiểu cách sử dụng từ ngữ của những đối tượng liên quan và đi đến nhận xét: thơ T.T.Kh không có những chữ như “ly khách, cửa ải xa, xóm thanh bình, trường thành, quan san, trường đình, thét roi, cô phụ, đoạn trường” như Thâm Tâm, không có những chữ như “vương tơ, lão bộc, vật đổi sao dời, quay tơ, guồng tơ, hận tình, buồng the” như Nguyễn Bính. Nhận xét này của Thanh Châu khá tỉ mỉ và chính xác, cho ta thấy sự khác biệt về cách sử dụng từ ngữ giữa T.T.Kh và Thâm Tâm, Nguyễn Bính.

Chúng ta thấy một điều rất quan trọng nữa về mặt ngôn ngữ trong thơ T.T.Kh là tác giả hầu như chỉ sử dụng từ thuần Việt. Thế nhưng hình ảnh trong thơ T.T.Kh thì lại khác. Nhiều hình ảnh trong thơ T.T.Kh không thể có được trong thơ của Thâm Tâm hoặc Nguyễn Bính: “nhặt cánh hoa rơi, buồn quá xem tiểu thuyết, tiếng lá thu khô”... Những hình ảnh này rất "Tây", tiêu biểu cho một tầng lớp thị dân "chính cống" chứ không phải "từ quê lên tỉnh" như Nguyễn Bính.

Đến đây, chúng tôi muốn đi vào điều cốt lõi hơn nữa. Một điều rất rõ là khi đọc các bài thơ của T.T.Kh, người ta có cảm giác ngay lập tức tác giả phải là một người phụ nữ.

TRẦN ĐÌNH THU

Bâng Khuâng nói...

Bỏ qua các nhà thơ Nguyễn Bính, Thẫm Thệ Hà, J Leiba... đã bị loại ngay từ đầu trong vai trò được cho là người yêu của TT Kh. Chỉ có nhà thơ Thâm Tâm mới được xem là người yêu của TT Kh, thậm chí được xem chính là tác giả của 4 bài thơ với bút danh TT Kh đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bẩy, được nhiều người xác nhận như Nguyễn Vỹ, Bùi Viết Tân, Trần Huyền Trân, Lê Công Tâm, Nguyễn Tố, Anh Đào, Thạch Hồ, Giang Tử, Trần Quân (tức Trần Viết Hương – cậu nhà văn Thanh Châu), Hoàng Tiến... và Phạm Quang Hòa (nhân vật gây nguồn cảm hứng để anh sáng tác bài thơ nổi tiếng “Tống Biệt Hành” - tức là nhà thơ Lương Trúc).
Chuyện phong cách thơ của Thâm Tâm rất khác biệt với phong cách thơ TT Kh, chính là vấn đề là người đọc nghi ngại việc Thâm Tâm không thể là TT Kh. Thực ra khi cần giả dạng phụ nữ khi làm thơ, tất nhiên người ta phải đổi khác phong cách cho phù hợp, việc này không hiếm. Trong trào lưu làm thơ trên blog, trên face hiện nay có một “nữ thi sĩ” nổi danh và được nam giới thi nhau làm thơ xướng họa và bình thơ khen ngợi không tiếc lời (như Phieuvan Thlangdu), đó là “nữ thi sĩ” HOA TRONG HOA, những ai chơi thân với với nhà thơ Kha Tiệm Ly mới biết chính ông đã hóa thân thành “nữ thi sĩ” HOA TRONG HOA”.
Hơn nữa xét 4 bài thơ của TT Kh đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bẩy số 179
- “Hai sắc hoa ty gôn” đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bẩy số 179 (30/10/1937).
- “Bài thơ thứ nhất”, Tiểu Thuyết Thứ Bẩy số 182 (20/11/1937),
- “Đan áo cho chồng”, đăng trên Phụ Nữ Thời Đàm,
- “Bài thơ cuối cùng”, Tiểu Thuyết Thứ Bẩy, số 217 (23/7/1938).
Và so sánh 4 bài thơ ký tên TT Kh ở trên với 3 bài thơ "trả lời" của Thâm Tâm in trên Tiểu Thuyết Thứ Bẩy sau đó như:
1) Màu máu ty-gôn,
2) Dang dở,
3) Gửi TT Kh.
Chúng đều cùng mang một phong cách như nhau, khác với phong cách thơ “TỐNG BIỆT HÀNH” của Thâm Tâm.
Thâm Tâm và TT.Kh. đều là thi nhân nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam. 7 bài thơ của Thâm Tâm và TT Kh đã đề cập ở trên có vẻ đẹp bổ túc cho nhau và cảm thông như đôi tri kỷ....

Vũ Nho Ninh Bình nói...

Tôi đã đọc hết và tôi ủng hộ kết luận của chủ trang BÂNG KHUÂNG!

Bâng Khuâng nói...

Cảm ơn Gs Vũ Nho đã đọc hết bài viết cùng các ý kiến cảm nhận và ủng hộ kết luận của tôi. Chúc Gs luôn vui khỏe !