Sáng sớm hai bên con đường Nguyễn Trãi, mọi nhà đang
yên giấc ngủ nhưng quán Bà Mười đã dậy trước nhất. Con đường Nguyễn Trãi tuy ngắn
nhưng ra Chợ Mỹ Tho lại gần nên dân lao động thường tới sớm uống ly cà phê kho
tại quán này khá đông. Khách của bà chẳng ai xa lạ, phần nhiều là phu đạp xe ba
gác hay xích lô đạp.Cũng có vài chú
tài, lái xe Lambro ba bánhnhưng mấy người
này thường tới trễ hơn. Bà Mười lâu nay
quen chuyện dậy sớm bán cà phê cho khách lao động trong phường. Nói là quán
nhưng thật ra là mái hiên trước của nhà bà mà thôi. Căn gác hai tầng-căn nhà của
bà-mấy năm nay bà chỉ ở phía dưới. Tầng trên bà cho thuê kiếm thêm lợi tức. Tầng
trên ba năm sau này từng biến làm chỗ nhảy nhót cho một số cave và lính Mỹ về
đêm. Nhưng không phải thường xuyên, vài ba đêm số cave này mới đem khách về nhảy,
hát ca, rượu chè... Tiếng là cà phê kho, ba chữ nghe thật bình thường,
nhưng mấy tay ba gác hay xích lô thiếu một cử cà phê như vậy vào buổi sáng sớm,
chắc suốt ngày sẽ không đạp xe nổi? Họ đã ghiền, dậy sớm làm ăn nhưng không tới
quán Bà Mười là không được. Không hẹn mà gặp, cứ non năm giờ sáng, dân đạp xe,
chở mướn đã gặp nhau trước quán rồi. Cà phê kho thật khác với cà phê phin. Bình dân lao động
thì giờ đâu ngồi chờ giọt cà phê tí tách rơi như trong mấy cái quán cà phê đúng
nghĩa?Cà Phê Kho có nghĩa là nấu “tốc
hành” cùng một lượt. Bà Mười ước độ bao nhiêu khách rồi bỏ khoảng hơn trăm gam
cà phê vào trong cái túi vải, xong đặt vào một bình thiếc cao loại chuyên hâm cà
phê của Pháp. Bà chủ dậy sớm, việc đầu tiên là lo cái ấm cà phê kho. Cái bọc vải
cà phê cứ thế mà rỉ rả sôi trong cái bình thiếc cao cao nói trên. Bà Mười nấu
đã quen tay. Cà phê kho ba tiếng nghe thật bình dân, thế mà lạ, nó phải qua tay
Bà Mười ‘kho’ mới ngon? Khách uống lại ghiền. Phải chăng họ chỉ quen hương vị
này? Cuộc sống cần lao, không ai đòi hỏi gì hơn nữa. Có thể nhu cầu của người
lao động, hàng ngày sống nhờ vào "cơ bắp" của chân tay nên an phận,
chỉ ngần ấy cà phê, chỉ hương vị đó thôi là họ thỏa mãn rồi. Hình ảnh mấy
cái ly cà phê đen nho nhỏ. Ai kêu cà phê sữa thì bà chủ chế thêm chút sữa đặc
Ông Thọ vào cỡ ly cao hơn một xí, một xí thôi chứ không lớn lắm, rồi cũng chung
một thứ cà phê kho từ cái bình đó thôi. Bàn tay mập ú của bà Mười nhẹ nhàng,
quen thuộc, nhấc cái bình cà phê đang bốc hơi trên bếp than hồng nho nhỏ. Chủ
quán rót chính xác từng ly, đặt đúng vị trí cho từng khách kêu loại sữa hay
đen, chẳng hề lầm lẫn.
Xe lam trước 1975
Một thời chúng
ta chưa hề thấy hình ảnh những điếu thuốc Jet bán lẻ đặt trên dĩa như những năm
sau này. Ai có tiền thì hút Ruby Queen hay Capstan, nhưng mấy tay lao động, đạp
xe ba gác hay xích lô, họ vốn từ miệt vườn lên phố Mỹ (tho) làm ăn, quen vấn thuốc
rê lâu rồi. Mấy ngón tay thô ráp nhưng vấn thuốc rê thật tài. Vừa phì phèo hơi
thuốc vừa nói chuyện thời sự, làm ăn, chuyện giành khách, giựt mối... chút hào
hứng nào trong mớ chuyện hỗn độn hàng sáng hào hứng thêm trong khói thuốc nặng
mùi. Mấy chú tài lái lambro, mấy chiếc ba bánh hay chạy về Chợ Gạo hoặc ra Ngã
ba Trung Lương, lại hút bastos xanh nhưng xem chừng hiếm người ghiền thuốc
Capstan. Chuyện dễ hiểu; đồng tiền kiếm ra hàng ngày khó khăn, chẳng có ai đủ sức
mua nỗi capstan hay ruby hút hàng ngày nỗi? Đạp xe suốt ngày kiếm ra tiền, họ
còn lo cơm áo gạo tiền, một ngày đặng bao nhiêu? Cử cà phê kho vào sáng sớm là đủ rồi, họ còn mong gì
hơn.
Xe
ba gác trước1975
Đồng tiền của khách uống cũng bình dân. Giá cà phê kho
đương nhiên vừa hợp khẩu vị lại hợp túi tiền. Đạp xe ba gác, hay xích lô làm gì
uống loại ngon hơn. Quan trọng nhất là ra Hàng Bông cho kịp chợ. Ba gác sẽ tới
Cầu Quay xuống tận mấy vựa dọc bờ sông chở hàng rau trái hoa quả ra cho con
buôn lúc trời vừa hừng sáng. Đó là chuyện làm ăn buổi sáng ngoài chợ Mỹ Tho. Giờ
đây trời mới lơ mơ chưa sáng, gặp nhau lai rai chút cà phê, tán gẩu năm ba điều
thôi chẳng ai dám ngồi lâu. Dân lao động cùng phường như Tư Cầu hay Cu Ba đạp
ba gác, hoặc Chú Tư xích lô sáng sáng ngồi với nhau quanh cái bàn gỗ ọp ẹp rồi
rầm rì câu chuyện thời sự. Họ vừa nói chuyện vừa nhấm nháp chút chút mấy cái ly
cà phê nho nhỏ. Mấy câu chuyện nghe loáng thoáng không đầu chẳng đuôi? Ai nghe
cũng đoán mấy tay này đang nói về chuyện chiến tranh ngoài Huế nổ lớn. Báo Sóng
Thần đăng tin Đại Lộ Kinh Hoàng dân chết quá trời. Mặt trận An Lộc, Bình Long nữa
toàn những tin căng thẳng về chiến tranh được báo hôm qua đăng trang đầu. Hơi
hám chiến tranh lan theo mặt báo về tận Mỹ Tho. Rồi gần hơn là tin trường học ở
Cai Lậy bị pháo kích,trẻ em chết tơi bời
thảm thiết…
Xích
lô đạp trong chợ Mỹ Tho trước 1972
Mấy ly cà phê kho đã hết. Bà chủ bưng cho một ấm thiếc
đựng trà cho cả bàn uống chung. Vị trà cũng bình dân chắc chắn không phải là thứ
hảo hạng. Chẳng nghe ai đòi hỏi gì thêm. Mấy tay 'ghiền cà phê kho' này có lối
uống trà theo thói quen lao động. Chẳng ai cần thêm tách uống trà. Chẳng ai cần
làm phiền chủ quán. Họ chỉ cần dùng ly cà phê uống rồi, lắc lắc chút nước trà đầu
cho sạch phía trong, nhưng chẳng hắt đi xa, xong đưa luôn vào miệng.Ly cà phê sữa, uống xong cũng thế. Khách chỉ
lắc lắc chút nước trà xong, lại đưa vào miệng. Họ thật đơn giản, thật bình thường.
Hình như tất cả động tác đó gom chung; chính là lối sống và nếp nghĩ chất phác
của lao động. Nếu ai đó muốn nói khác hơn đó là một lối sống bình dị cùng đơn
giản nhất của lớp dân lao động nghèo nàn lẫn lộn trong cuộc sống bon chen nơi
chốn thị thành. Cà phê kho rõ ràng là thứ cà phê bình dân, cho đến
hương vị của ấm trà cũng bình dân. Tất cả quyện lẫn trong không khí lành lạnh
và yên tĩnh của mỗi buổi sáng của một thành phố miền nam. Khách hàng, người lạo
động trong phường đều ghiền như thế, không có không được. Từ tay chở xe ba gác cho đến người phu xích lô đạp
trong mấy xóm dân lao động, sáng sớm đều ngồi chồm hỗm trên cái ghế gỗ bên cạnh
cái bàn ọp ẹp như vừa nói ở trên. Nhâm nhi chút chút nói chuyện chiến tranh,
chuyện đi lính, chuyện pháo kích, ngay cả chuyện giựt hụi ngoài chợ tất cả đều
nói rầm rì trong cái không khí thân quen đó. Mùi cà phê kho của quán bà Mười còn bốc ra thơm ngát.
Bóng đèn điện vàng vọt khi ánh mặt trời chưa rạng. Lớp đạp ba gác và xích lô đi
rồi, sẽ còn một số khách bình dân khác tới tiếp tục uống vài ly cà phê kho của
Bà Mười. Những ly cà phê kho đơn điệu nằm trên mấy mặt bàn đóng bằng gỗ két đạn.
Tất cả đều bình dị đời thường như khách cà phê của Bà Mười. Quán cà phê kho buổi
sáng nó đồng nghĩa với im lìm không bao giờ có tiếng băng nhạc hay radio. Khách
sáng sớm họ ghiền cà phê kho, ghiền cái không khí im lặng của buổi sáng sớm.
Vài người bạn tâm giao đối ẩm với ly cà phê nhỏ bé, cùng tiếng nho nhỏ chuyện
trò. Ngoài đường rất lâu mới có tiếng xe honda của ai đó đi
làm sớm chạy qua. Mấy ngõ kiệt vẫn im lìm trong giấc ngủ. Làn hơi trăng trắng từ
bình cà phê kho của quán Bà Mười bốc lên dưới ánh sáng của bóng đèn vàng vọt. Mấy
người uống cà phê đang ngồi chồm hổm trên chiếc ghế gỗ, lác đác chuyện trò nay
tất cả đều nhanh nhảu đứng dậy ra chợ kiếm sống. Bắt đầu một ngày từhương vịbình dân củaly cà phê kho nơi
quán Bà Mười họ sẽ tiếp nối một ngày làm lụng với sức mạnh gân cốt của mình. Thế
mà lạ làm sao, họ vẫnhưng phấn yêu đời,
chăm chỉ đạp xe xích lô hay gò lưng sau chiếc ba gác chở đầy hàng hóa, sống trọn
vẹn từng ngày vất vả. Đinh Hoa Lư Nhớ
về thành phố Mỹ Tho 1972
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét