BÂNG KHUÂNG

CÁM ƠN CÁC BẠN ĐÃ GHÉ THĂM, ĐỌC VÀ GHI CẢM NHẬN. CHÚC CÁC BẠN NĂM MỚI GIÁP THÌN 2024 THÂN TÂM LUÔN AN LẠC

Thứ Bảy, 19 tháng 11, 2022

BÀI TỔ TÔM XUẤT XỨ TỪ NHẬT BẢN, SAO NGƯỜI NHẬT KHÔNG BIẾT CHƠI? - Thiên Trang

Các nhân vật trong bộ bài Tổ Tôm mặc Kimono thời Edo mang đặc trưng Nhật Bản. Nhưng người Nhật hoàn toàn không biết đến trò chơi này.

 
Tổ tôm, hay theo Hán Việt tụ tam bài (聚三牌), là một trò chơi bài lá dân gian phổ biến của người Việt. Về tên gọi, có nguồn cho rằng "tổ tôm" là đọc trại âm "Tụ tam". "Tụ tam" theo từ nguyên là "góp ba thứ lại", tức ba hàng Văn, Vạn và Sách của bộ bài.
 

Hình vẽ trên mỗi quân bài lại mang phong cách tranh mộc bản (木本 mokuhan) của Nhật Bản nên có người đặt câu hỏi phải chăng tổ tôm xuất phát từ Nhật. Nguyên nhân có lẽ chỉ là do dưới thời Pháp thuộc, công ty A.Camoin & Cie của Pháp đã cho phát hành bộ bài tổ tôm với những hình trang trí lấy cảm hứng từ mĩ thuật Nhật Bản.
 

Hình ảnh của bộ bài tổ tôm được giữ nguyên từ đó cho đến nay. Có nguồn thì lại phỏng đoán cho tổ tôm xuất phát từ Trung Hoa. Tuy nhiên cho đến nay rõ một điều là cả Nhật và Trung Hoa đều không dùng bộ bài này.
 

Những nhân vật trên quân bài đều trang phục như người Nhật thời Edo, tức trước cuộc cải cách của Nhật hoàng Minh Trị 1868.
 

Trong các quân bài thì 18 quân vẽ hình người đàn ông (có tám người chân quấn xà-cạp kyahan), bốn hình phụ nữ và bốn hình trẻ em. Ngoài ra có vài quân vẽ những vật khác nhưng đều là mô hình thông dụng trong ngành hội họa Nhật: cá chép, trái đào, vọng lâu, tàu thuyền.
 

Lá bài làm bằng bìa cứng, hẹp và dài, một mặt để trơn, mặt kia có hình và chữ. Bề ngang lá bài khoảng chiều ngang hai ngón tay. Bề dọc dài hơn ngón tay giữa.
 

Lạ ở chỗ là bộ bài này chỉ có người Việt chơi, người Nhật không chơi, người Hoa cũng không chơi (Trừ một số ít Hoa Kiều ở Việt Nam). Nhưng những chữ viết trên lá bài là một loại chữ Hán (Kanji) kiểu cách, hơi giống Lệ Thư (Reisho) với nét cứng mạnh, gồm có bốn loại chữ là “văn, vạn, sách, thang, không biết có liên hệ gì với mạt chược, tiếng Nhật gọi là “majan” (Ma tước) không?
 

Còn các hình vẽ đều là hình vẽ của Nhật, có lẽ gốc là một lối tranh mộc bản (Mokuhan, học từ Trung Hoa nhưng trở thành đỉnh cao mỹ thuật độc đáo của Nhật) đơn giản và nay thường do người Hoa in ra bán.
 

Giáo Sư Yumio Sakurai đã giới thiệu trong cuốn “Nihon No Kinsei 1, Nhật Bản Cận Thế, tập 1″ do nhà xuất bản Chuo Koron Sha, Trung Ương Công Luận Xã, xuất bản năm 1992. Theo Giáo Sư, loại chữ ghi trên đó cũng lạ, không hẳn là chữ Hán bình thường, một số chữ có thể là chữ Nôm? Thực ra, tất cả chỉ là chữ Hán viết kiểu cách đi thôi.
 

Đưa cho một số người Nhật đọc thử một số nét chữ trên bộ bài Tổ Tôm, họ đọc không được hoặc vừa đọc vừa đoán. Ðặc biệt lá bài “nhất thang” (Chữ nhất viết theo lối cổ) có hình bà mẹ cho con bú, nét viết rất lạ (Bộ ba chấm thủy viết thành hình số 8, chữ nhất dạng cổ cũng khó nhận ra) thì hầu như không ai đọc được.
 

Thêm một điểm cũng lạ là người Việt chơi bài và cờ hầu như không biết chữ Hán, nhưng nhận diện quân Cờ Tướng, Mạt Chược và quân bài Tam Cúc hay Tổ Tôm viết bằng chữ Hán thì không sai.
 

Cửa tiệm Mekong Center ở Nhật Bán thường bán bài Tổ Tôm cho người Việt (Thanh niên miền Bắc) và cho người Nhật, họ không biết chơi, nhưng mua để nghiên cứu tìm hiểu nguồn gốc.

                                                                                        Thiên Trang


Nguồn:
https://kienthuc.net.vn/kho-tri-thuc/bai-to-tom-xuat-xu-tu-nhat-ban-sao-nguoi-nhat-khong-biet-choi-1774356.html

*

Mời xem thêm bài này:


BÍ ẨN KHÔNG LỜI GIẢI CỦA BỘ BÀI TỔ TÔM VIỆT NAM


https://kienthuc.net.vn/giai-ma/bi-an-khong-loi-giai-cua-bo-bai-to-tom-viet-nam-1480913.html
 

TẢN VĂN MIÊN MAN… - Trần Mai Ngân



Có những ngày qua đi cùng nắng gió, đôi khi là bão giông em vẫn lặng im ở nơi này - nhớ N đầy tràn nhưng vẫn không gọi, không nói… Và cứ thế thời gian trôi đi, trôi đi từ những tháng năm đó.
Mùa Thu đã qua. Những con lũ tràn mênh mông về thành phố nhỏ xíu này cũng đã hết, trả lại những sinh hoạt bình thường, trả lại mặt đường khô ráo lặng câm.

Thứ Năm, 17 tháng 11, 2022

ĂN CHƠI TRÊN ĐẤT HÀ THÀNH XƯA – Tạ Thu Phong



Trước năm 1945, các quán cô đầu là chốn khách chơi thường tìm vui.

 
Khi buồn thuốc phiện, khi vui cô đầu
 
[…]
 
Hà thành kim tính khảo của Sở Cuồng Lê Dư cho biết trước đây phố Hòe Nhai có nhiều nhà ả đào. Nguyên do là có bà lão tên là Bá Ẩu rất giỏi nghề hát đã mở lớp dạy xướng ca, từ đó nơi đây trở thành xóm “Bình Khang”. Sau bao lần vật đổi sao dời, xóm ả đào dịch chuyển nơi khác không còn ở Hòe Nhai nữa.
 
Thời cực thịnh của nghề sênh phách là khi ca quán còn trên phố Hàng Giấy. Một buổi hát được gọi là một chầu. Người có “máu mặt” nhất trong các quan viên (cách xưng hô tôn kính chỉ khách đến nghe hát) được mời cầm chầu. Nói vậy chứ cầm roi chầu không hề đơn giản. Người cầm chầu phải biết khi nào đánh sơ cổ, tòng cổ, trung cổ và khi nào dùng các khổ song châu, liên châu, xuyên tâm… […]
 
Khi người Pháp vào Đông Dương, sự xâm thực ngày càng lớn của lối sống Tây Âu khiến giọng ca, tiếng đàn của hát ả đào dần lạc nhịp, không còn thuần khiết như xưa. Đào nương không còn chú tâm nắn nhịp phách, giọng ca sao cho hay, cho ngọt nữa.
 
Các quan viên không chỉ là văn nhân tài tử lịch lãm mà còn có những thanh niên Tây học, họ không chỉ đến nghe hát mà còn uống rượu và tìm vui. Sự biến đổi này đã xuất hiện thêm một loại người nữa bên cạnh ca nương, đó là cô đầu rượu.
 
Cô đầu rượu phần nhiều không biết hát. Nhưng họ biết cách búi tóc thật cao để khoe cái cổ trắng ngần và rất giỏi lả lơi ve vãn khách. Nhiệm vụ của cô đầu rượu là ngồi bên cạnh quan viên trò chuyện, quạt mát và hầu rượu. Có thể hình dung giống karaoke ôm hoặc hát ở tiệc rượu bây giờ vậy. […]
 
Không ít trường hợp tâm đầu ý hợp, khách xin cưới cô đầu làm vợ hoặc làm thiếp. Giá cả chuộc cô đầu theo thỏa thuận. Tàn cuộc rượu, nếu “quan viên” có nhu cầu ngủ lại thì cô đầu rượu chuẩn bị giường chiếu và dĩ nhiên một số cô đầu sẵn sàng lả lơi “lửa bén mặn nồng” để chiều khách.
 

BÍ MẬT HÀN MẠC TỬ (KỲ 2): NGUYỄN TRỌNG TRÍ PHẢI CHĂNG GỐC HỌ...NGUYỄN? - Phanxipăng



Kỳ 2: NGUYỄN TRỌNG TRÍ PHẢI CHĂNG GỐC HỌ...NGUYỄN?

Vấn đề gia thế của Hàn Mạc Tử cũng tồn tại lắm ly kỳ, uẩn khúc, không dễ gì tỏ tường sớm một chiều!
 
Hàn thi sĩ có họ tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 - 9 - 1912 tại làng Lệ Mỹ, tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình; nay là phường Đồng Mỹ, thị xã Đồng Hới, Quảng Bình; trong một gia đình Kitô giáo. Thân phụ của nhà thơ là ông Nguyễn Văn Toản, bấy giờ làm công chức ngạch thông Phán (cardre secondaire) ở đấy nên thường được mọi người gọi là “thầy thông Toản” hoặc “thầy Toản”. Thân mẫu là Nguyễn Thị Duy, một phụ nữ Huế, con gái thứ 9 của ngự y Nguyễn Long, người gốc Trà Kiệu (Quảng Nam) và ở Vạn Xuân - vùng đất thuộc mạn bắc sông Hương, nằm cạnh kinh thành Huế.
 

YẾU TỐ ĐỒNG TÍNH TRONG THƠ ĐỖ ANH TUYẾN – Đặng Xuân Xuyến


Tác giả bài viết Đặng Xuân Xuyến

Đỗ Anh Tuyến làm thơ không nhiều và thơ của anh chủ yếu ghi lại những cảm xúc "chợt đến chợt đi" của tâm trạng cá nhân nên số bài thơ lưu lại trong trí nhớ bạn đọc chắc chỉ ở con số vừa phải so với số lượng bài thơ không nhiều của anh. Thực tình, trong gia tài thơ ngót nghét trăm bài của anh tôi ấn tượng chắc cũng chỉ trên mươi bài mà oái oăm phần nhiều lại là những bài thơ có "vấn đề" về cảm xúc tình cảm trai gái, gây những cảm giác "lạ lạ khó hiểu" với bạn đọc. Bài viết này là chút cảm nhận của tôi về một số bài thơ tình mang “dấu ấn” lạ lạ khó hiểu của Đỗ Anh Tuyến, hoàn toàn không đem ra đo đếm định lượng khen-chê thơ anh bởi Đỗ Anh Tuyến chỉ mượn thơ để ghi lại những cảm xúc "chợt đến chợt đi" của riêng anh như trang nhật ký của tiếng lòng.
 

THƠ, HOA & NGƯỜI (3) - Nguyên Lạc


Hoa dã quỳ
 
(Có một số đoạn ở 2 bài trước được lập lại ở đây cho các bạn chưa đọc qua được hiểu)
 
HOA
 
Khi vui hay khi buồn, hoa luôn luôn là bạn trung thành của ta. Ta ăn uống, ta ca vũ, ta ve vãn đùa cợt với hoa. Ta kết hôn, làm lễ rửa tội với hoa. Ta không dám chết mà không có hoa. Ta thờ phượng với Bách hợp, ta mặc tưởng với Sen, ta bày trận với Hồng với Cúc. Ta lại còn muốn nói bằng ngôn ngữ của hoa. Không có hoa, làm sao ta có thể sống được?  
                                               (Trà Đạo / Chado - Okakura Kakuzo)
 

TIM SA MẠC - Thơ Quách Như Nguyệt


  
                    Nhà thơ Quách Như Nguyệt
 

TIM SA MẠC
 
Đừng trách em sao làm thơ khao khát
Sao lụy tình, hay xin xỏ tình yêu
Đừng chê bai… bảo sao thơ chua chát? 
Dụ dỗ người vào bể khổ phiêu diêu
 
Đừng anh nhé, em xin anh thấu hiểu
Trái tim em như sa mạc về chiều
Khô khan lắm nên rất cần tưới tắm
Xin chút tình… cho tim được tin yêu
 
Đừng phiền em...  sao thơ như mời mọc?
Rủ rê hoài, em gõ thơ lóc cóc
Anh đâu biết khi làm thơ em khóc
Dĩ vãng buồn, thơ đâu phải cho anh
 
Tim sa mạc, ôi trái tim sỏi đá
Vào mùa đông tim lạnh giá não nùng!
Tim sa mạc, tim khô cằn buồn bã
Em làm thơ cho đỡ khổ đó mà 
 
                             Quách Như Nguyệt

CHÙM THƠ “TRƯỜNG TƯƠNG TƯ” (“TƯƠNG TƯ” - THƠ CỦA VƯƠNG DUY, “TƯƠNG GIANG OÁN” - KHÚC NHẠC CỦA LƯƠNG Ý NƯƠNG”...) – Đỗ Chiêu Đức


 
 A. Bài thơ TƯƠNG TƯ ngắn nhất:
        
Tương truyền, nước Nam ngày xưa, gồm Lưỡng Quảng bây giờ, có người chinh phụ hay tin chồng đã chết ở chiến trường, nên đau lòng khóc thương đến chết ở bờ rào. Ít lâu sau nơi đó mọc lên một dây đậu trổ ra toàn là đậu đỏ. Dân làng gọi đó là  "Tương Tư Tử 相思子 ": là Hạt Nhớ Nhau. Trong Đường Thi có bài thơ ngũ ngôn tuyêt cú Tương Tư 相思 nổi tiếng của Thi Phật Vương Duy có nhắc đến loại Đậu Đỏ nầy:

Hồng ĐẬU sanh Nam quốc,   紅豆生南國,               
Xuân lai phát kỷ chi?             春來發幾枝 ?               
Nguyện quân đa thái hiệt,       願君多採擷,             
Thử vật tối tương ti (tư).        此物最相思

Diễn nôm:

Nước Nam có đậu hồng,                    
Xuân về trổ mấy bông ?                    
Xin người hái lấy để trong...             
Áo xiêm xao xuyến cho lòng nhớ nhau!
 
 

Thứ Tư, 16 tháng 11, 2022

THÁNG 3 VỀ NHỚ ĐÊM XUÂN... - Chùm thơ tặng V của Đặng Xuân Xuyến


  

 
THÁNG GIÊNG
(tặng V yêu)
 
Chạm ngõ đầu xuân đón nắng mai
Lộc biếc run run hứng rét đài
Ngón thon lùa nắng e thẹn ngại
Lúng liếng mắt cười: Đã Giêng Hai.
 
Làng Đá, 17 tháng 2-2022
 
 
EM TÔI
(tặng V yêu)
 
Nắng vẫn tươi nồng hương lúa non
Em tôi má thắm đắm duyên giòn
Quẩy nắng sang chiều thoăn thoắt gọn
Mây vờn gió nựng dáng eo thon.
 
Hà Nội, 09 tháng 7-2021
 
 
THÁNG BA VỀ...
(với V yêu)
 
Ừ tháng Ba về! Ừ, tháng Ba...
Hoa xoan tim tím rụng hiên nhà
Lạnh chiều cong cớn cơn gió lạ
Mưa bụi giăng dầy, ta nhớ ta.
 
Làng Tám, chiều 01.03.2021
 

CẨN HỌA BÀI THƠ “THIẾU NỮ NGỦ NGÀY” CỦA NỮ SĨ HỒ XUÂN HƯƠNG


   


THIẾU NỮ NGỦ NGÀY
 
Mùa hè hây hẩy gió nồm đông,
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng.
Lược trúc chải cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long.
Đôi gò Bồng đảo sương còn ngậm,
Một lạch Đào nguyên nước chửa thông.
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt,
Đi thì cũng dở, ở không xong.
 
Hồ Xuân Hương
 
 
CẨN HỌA
 
 
NGỌN NÚI DẬY THÌ
 
Ngọn liễu đa tình cợt gió đông
Đầm sen nở nụ ngát hưng nồng
Hằng Nga lãng mạn khoe hình bóng
Chú Cuội đa tình vén yếm long
Quyến rũ chàng thi lòng mãi vọng
Mơ màng đảo ngọc suối nào thông
Rừng thu cởi áo ngời hoa mộng
Quả núi dậy thì mộng chẳng xong…
 
Đức Hạnh
30 10 2022
 

Thứ Ba, 15 tháng 11, 2022

CUỐI ĐÊM – Thơ Lê Phước Sinh


   

 
CUỐI ĐÊM 
 
Con Trăng già ngái ngủ
Mây thẹn thùng thả màn
Đường dài vòng quanh phố
Sỏi đá vọng âm vang.
 
                  Lê Phước Sinh

GỪNG VÀ MUỐI, EM EM CHỊ CHỊ, ĐEN VÀ ĐỎ - Thơ Chu Vương Miện


   


GỪNG VÀ MUỐI
 
hạt mưối mặn ba năm còn mặn
lát gừng cay chín nước còn cay?
                                     [ca dao]
 
hết tiền tình cũng rã ngay
thôi thì đêm cũng như ngày hỡi ôi
mới là cục đá lưng đồi
đút lò đã hoá thành vôi trắng hều
đầy tiền đầy ắp tình yêu
vơi tiền tình uống thuốc liều đi đoong
tội tình một lũ liền ông?
vo ve cũng giống đàn ong ong ruồi
dư tiền mặt óng vàng tươi
cạn tiền chả có con ruồi bu quanh
cũng là thôi cũng đành đành
giai nhân giờ cũng lâm hành đường xa
thương gần chán quá thương xa
chẳng là kẻ cắp bà già đẹp đôi
đồi mua cũng vẫn là đồi?
đồi sim đồi chẩu đời sồi đồi nưa
trời hành tháng tám chưa mưa?
tháng chín lá đỏ cuối mùa lá bay?
lá bay bỏ lại chốn này?
 

Thứ Năm, 10 tháng 11, 2022

VỀ BÀI "NGÀY BÉ ĐỌC CA DAO" CỦA TÚ ĐIẾC - Nguyên Lạc


Nhà thơ Nguyên Lạc

 
HAI NHẬN XÉT
 
Tình cờ tôi đọc được bài viết "Ngày bé đọc ca dao" của Tú Điếc Trần Đức Phổ đăng trên các trang mạng, đặc biệt đoạn này làm tôi chú ý:
 
[Trích đoạn]

Có hai bài ca dao dài hơn bốn câu tôi thuộc lòng từ bé. Một là bài Trâu Ơi. Còn bài thứ hai ngày nay thấy trên mạng người ta đặt cho cái nhan đề: Lấy Chồng Sớm:
 
Lấy chồng từ thuở mười lăm,
Chồng chê tôi bé không nằm cùng tôi.
Đến khi mười tám đôi mươi,
Tôi nằm dưới đất, chồng lôi lên giường.
Một rằng thương, hai rằng thương,
Có bốn chân giường gãy một còn ba.
Ai về nhắn với mẹ cha,
Chồng tôi nay đã giao hoà cùng tôi.
...
 
Khi đã có vợ rồi, một hôm ngồi nghĩ ngợi vẩn vơ tôi chợt nhớ đến bài ca dao trên, đọc lẩm nhẩm cho vui, tôi mới chợt phát hiện một điều quan trọng thú vị.
 
Ai về nhắn với mẹ cha,
Chồng tôi nay đã giao hoà cùng tôi.
 
A, thì ra chị này cũng đáo để thật! Mới mười lăm mười bảy tuổi đầu anh chồng không ngó ngàng gì đến đã phật lòng về nhà méc với cha mẹ rồi! Thế thì mười chín đôi mươi được chồng thương không gãy chân giường mới lạ! Tuy anh chồng có hơi vũ phu chút đỉnh nhưng giọng điệu của chị không hề trách cứ giận hờn mà còn sung sướng khoái trá khi được “giao hòa” nữa nghen. Ai dám bảo phụ nữ ngày xưa là thiếu lửa trong chuyện vợ chồng?
 
Tôi ngẫm nghĩ mãi cái chữ “nhắn” trong câu áp chót, nó mới hay làm sao!. Người đọc có thể nhận ra rằng chị này đã “ăn quen bén mùi” rồi nên chẳng đành lòng xa anh chồng vài hôm để về nhà mẹ!
 
Tôi đọc bài ca dao trên nhiều lần, mỗi lần lại chỉ hiểu tí chút. Quả thật người xưa làm ca dao rất tuyệt vời. Tôi dám chắc rằng thời xưa dân ta không hề biết thủ pháp “Show do not tell” nhưng nhiều bài ca dao đã thể hiện tài tình kỹ thuật này. Bài Lấy Chồng Sớm là một điển hình. Toàn bài không nói đến mây mưa, ân ái, nụ hôn cháy bỏng, vòng tay siết chặt… không cần từ ngữ tục tĩu gì ráo, nhưng đọc xong ai cũng hiểu được chuyện gối chăn của cặp vợ chồng này nồng nàn, lên đỉnh như thế nào! Ngày nay có một số người đi rao giảng thi pháp “Show do not tell” nhưng tôi đọc thơ họ chỉ thấy toàn “Tell and tell.” Thật ra làm thơ không quan trọng ở chỗ dùng thủ pháp nào, miễn sao nó chuyên chở được ý nghĩa và cảm xúc đến với người đọc là ok. Thuyền nan hay ca-nô đều độ được người qua sông, cốt yếu chúng không chết máy hoặc gãy chèo giữa dòng.
                                                                                             Tú Điếc
[Hết trích]

.............
 
Nguồn bài viết:
 https://nghiathuc.com/2022/09/09/ngay-be-doc-ca-dao-tranducpho/
 

Thứ Tư, 9 tháng 11, 2022

LƯỚT THƯỚT CỨ MƯA HOÀI – Thơ Quách Như Nguyệt, nhạc Nguyễn Hữu Tân, ca sĩ Tâm Thư trình bày

                       
  


LƯỚT THƯỚT CỨ MƯA HOÀI
 
Có tình yêu thế gian còn đẹp mãi
Có nụ cười hoa thắm chẳng tàn phai
Có mắt nhìn một lần lã mãi mãi
Có môi em trái nho chín ngọt ngào
Có trăng sao trời đêm đầy mộng ảo
Có tiếng cười ngọc vỡ thấy nao nao
 
Có tiếng khóc nghe xót xa nghẹn ngào
Có ánh nắng sáng ngời trên mái tóc
Có mặt trời nuôi sống thế gian đau
Ánh mắt chàng làm tim thấy xôn xao
Môi hôn chàng giúp quên đời khổ não
Nụ cười chàng làm suốt kiếp lao đao
 
Cón khát khao nên còn làm thơ mãi
Lá úa buồn cỏ nát dưới chân ai
Có em nhớ, em nhớ anh nhiều lắm!
Trời còn mưa lướt thướt cứ mưa hoài
 
                            Quách Như Nguyệt

 
      

 

GIÀ – Thơ Lê Phước Sinh


   
GIÀ
 
Già mà chưa nên Nết,
cứ "sắc sắc không không"
cà phê tào lao sáng
né thời sự tây - đông.
 
Già làm chi không biết
Tri thức đã đóng băng...
 
Núi mòn Sông thì cạn
Giặc chiếm tận đến bờ
Bạn, khéo than Già tuổi
giả làm điên - dại - khờ.
 
Bạn - lúc thời trai trẻ
"Trùm chăn" khắm giấu mùi...
 
                     Lê Phước Sinh

Thứ Hai, 7 tháng 11, 2022

GIA HỘI, PHỐ CỔ BỊ LÃNG QUÊN GIỮA LÒNG CỐ ĐÔ HUẾ - Phúc Đạt

Từ trước đến nay, mỗi lần nhắc đến phố cổ ở Huế thường thì nhiều người nhớ ngay đến phố cổ Bao Vinh. Thế nhưng, ít ai biết đến phố cổ Gia Hội - khu phố sầm uất nằm ngay giữa lòng Cố đô Huế thơ mộng.
 
 Nơi đây tập trung nhiều phủ đệ, gắn với những ngôi chùa, đình, miếu của người Việt đã tạo thành một cấu trúc đặc thù. Bên cạnh các di sản kiến trúc truyền thống, còn có các di sản phi vật thể về các lễ hội truyền thống, các ngành nghề thủ công cổ truyền, các hoạt động trình diễn nghệ thuật cung đình Huế… tiêu biểu cho một phần sinh hoạt của khu đô thị cổ bên cạnh kinh thành.

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa - Nguyên Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin Thừa Thiên Huế, khu phố cổ Gia Hội - chợ Dinh nằm ở phía đông ngoài kinh thành, là khu vực sầm uất bậc nhất xứ kinh đô Huế đầu thế kỷ 19.

Khu đô thị cổ này thực sự là một di sản độc đáo, mang yếu tố cấu trúc văn hóa của một vùng đô thị cổ, đang tồn tại trong một cộng đồng dân cư không ngừng biến động, bị sức ép của quá trình đô thị hóa thời hiện đại, lại thiếu một định hướng bảo tồn và phát triển phù hợp, nên qua thời gian đã bị biến dạng. Điều này dẫn đến không gian kiến trúc có tính lịch sử và văn hóa của vùng này sẽ bị phá vỡ, tài nguyên văn hóa du lịch đang bị lãng phí.

Khu phố này thuộc phường Gia Hội (TP. Huế) với hơn 5.500 hộ, gần 29.000 khẩu. Đa số người dân làm nghề lao động phổ thông, tiểu thủ công nghiệp, thợ mộc, thợ nề, cơ khí, chằm nón, may mặc... còn lại làm nghề buôn bán nhỏ, dịch vụ.
 
Nhiều ngôi nhà ở đường Bạch Đằng vẫn còn giữ được nét kiến trúc cổ.

Nhiều nhà cổ nằm lọt thỏm giữa những nhà cao tầng hiện đại.

Bà Nguyễn Thị Cẩm Các (SN 1944, sống ở ngôi nhà cổ số 22 đường Bạch Đằng) cho biết, bà sống ở nhà cổ này từ nhỏ thời ông cố của bà để lại. “Nhà tôi là một trong những ngôi nhà còn gần như nguyên bản từ xưa. Theo thời gian, những ngôi nhà cổ ở đây ngày càng mất dần. Huế có nhiều lợi thế nhưng tại sao chúng ta không phát triển những khu phố cổ này sầm uất trở lại để phục vụ du lịch như ở phố cổ Hội An“, bà Các trăn trở.
 
Những kết cấu còn nguyên bản ở nhà cổ của bà Nguyễn Thị Cẩm Các.
 

Nhiều ngôi nhà mang hơi hướng cổ xưa.

Theo thời gian, nhiều người dân tu sửa những ngôi nhà cổ để phù hợp với nhu cầu sinh hoạt.
 
Những mái ngói cổ nhuốm màu thời gian.
 
Đến thời điểm hiện tại, khu đô thị cổ này ngày càng biến dạng, nhưng cơ bản chưa bị xoá sổ. Vì thế theo ông Nguyễn Xuân Hoa, trong bối cảnh tỉnh đang tập trung thực hiện Nghị quyết 54 của Bộ Chính trị, vấn đề bảo vệ, tôn tạo và phát huy giá trị khu đô thị cổ Gia Hội - chợ Dinh càng đòi hỏi phải sớm bắt tay thực hiện, bằng một đề án cụ thể và với tinh thần trách nhiệm trước dân, trước lịch sử rõ ràng hơn.
 
Còn theo kiến trúc sư Võ Sỹ Châu (Khoa Kiến trúc - Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế), khu phố cổ Gia Hội là nơi lưu trữ đa dạng các loại hình kiến trúc nhà ở thương mại, minh chứng cho quá trình phát triển đô thị Việt Nam từ thời Nhà Nguyễn đến nay. Nếu biết khai thác các giá trị đặc trưng của các công trình sẽ tạo nên một sản phẩm du lịch đặc trưng thu hút du khách, đây là cách mà phố cổ Hội An đã làm được.

                                                                                              Phúc Đạt
 *
Nguồn:
https://laodong.vn/photo/gia-hoi-pho-co-bi-lang-quen-giua-long-co-do-hue-1113115.ldo

Chủ Nhật, 6 tháng 11, 2022

BÊN TRONG DINH THỰ VUA MÈO NƠI CAO NGUYÊN ĐÁ HÀ GIANG - Mạnh Đạt

Giữa cảnh trùng điệp của núi rừng Tây Bắc, dinh thự họ Vương (Dinh thự vua Mèo) hiện lên với vẻ cổ kính cùng kiến trúc độc đáo thu hút sự quan tâm của đông đảo du khách.
 
 
Dinh thự nằm ở thung lũng Sà Phìn, xã Lũng Phìn (huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang), cách trung tâm thành phố Hà Giang khoảng 125 km và cao nguyên đá Đồng Văn khoảng 25 km. Toà dinh thự này gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của hai cha con người Mông là Vua Mèo Vương Chính Đức và Vương Chí Sình.