Món bún bò dọn ra cho khách ăn được múc vào chén cho lịch
sự. Chén bún bò nước trong leo lẻo (vì đã được vớt mỡ cho nhẹ bớt cholestérol),
với con bún sợi nhỏ (mà bà chủ cho là để ăn cho thanh tao), nước nhiều hơn xác
(để ăn cho nhẹ bụng) và với lát thịt giò to và dày che gần kín mặt chén vì thịt
heo Mỹ là ngon nhứt. Chén bún bò dọn ra trông chẳng bắt mắt mà cũng chẳng khêu
gợi chút nào.
Con bún được thực khách vớt lên ăn từng sợi với chiếc muỗng sành và khi sắp đưa lên thấu môi, con bún lại tự động tuột xuống chén. Một trò chơi gô gô. Miếng thịt đùi cũng được khách vớt lên muỗng rồi đưa nhẹ lên đầu môi cắn quanh, trợt lên trợt xuống! Còn đâu là lớp màng màng màu đỏ khêu gợi trên miệng tô bún bò năm xưa, còn đâu là đôi đũa nghề để vừa lùa bún lùa nước vào miệng, vừa có thể kẹp chặt miếng giò heo để mà khới, để mà cắn! Lối ăn bún bò của xứ Huế, của thời xa xưa, thôi rồi, đã bắt đầu đi vào dĩ vãng!
Nói như vậy rồi, chắc sẽ có người hỏi: ăn thế nào mới đúng theo lối Huế ? Nói theo thời thượng thì theo văn hoá ẩm thực Huế, ăn thế nào mới đúng ?. Người Huế ăn theo lối Huế là chuyện thường tình, cách ăn uống đã nằm trong tâm khảm họ.
Ngồi vào bàn, cầm đôi đũa là đã biết gắp làm sao, cầm chén đũa làm sao, món gì phải ăn với món gì, vì đã nhiều lần từng được thấy cha mẹ mình, bà con mình dùng các thức ấy rồi. Thói quen đã thành, không cần thầy dạy. Tuy nhiên với sự xâm nhập của các văn hóa ngoại lai như những người Huế tha hương chúng ta đang chịu đựng, thiết tưởng cũng nên ghi ra cho biết cách ăn theo lối Huế kẻo lâu dần, ngay người Huế chính cống rồi đây cũng sẽ quên cách ăn đồ ăn Huế. Người Pháp có câu nói rất đúng trong trường hợp nầy, đó là: pour fixer les idées. Vì vậy, trong bài nầy, chúng tôi xin ghi lại cách ăn theo lối Huế, để cho biết, để cho nhớ.
Chúng tôi xin bắt đầu với tô bún bò Huế, đọi bún bò mà
dân Huế thường ăn vào buổi sáng. Bún bò Huế phải được múc vào tô, vào đọi,
không quá nhỏ như cái chén mà cũng không quá to như cái âu. Bưng tô bún bò lên
phải cảm thấy vừa tay, không nặng quá mà cũng không nhẹ quá.
Con bún được thực khách vớt lên ăn từng sợi với chiếc muỗng sành và khi sắp đưa lên thấu môi, con bún lại tự động tuột xuống chén. Một trò chơi gô gô. Miếng thịt đùi cũng được khách vớt lên muỗng rồi đưa nhẹ lên đầu môi cắn quanh, trợt lên trợt xuống! Còn đâu là lớp màng màng màu đỏ khêu gợi trên miệng tô bún bò năm xưa, còn đâu là đôi đũa nghề để vừa lùa bún lùa nước vào miệng, vừa có thể kẹp chặt miếng giò heo để mà khới, để mà cắn! Lối ăn bún bò của xứ Huế, của thời xa xưa, thôi rồi, đã bắt đầu đi vào dĩ vãng!
Nói như vậy rồi, chắc sẽ có người hỏi: ăn thế nào mới đúng theo lối Huế ? Nói theo thời thượng thì theo văn hoá ẩm thực Huế, ăn thế nào mới đúng ?. Người Huế ăn theo lối Huế là chuyện thường tình, cách ăn uống đã nằm trong tâm khảm họ.
Ngồi vào bàn, cầm đôi đũa là đã biết gắp làm sao, cầm chén đũa làm sao, món gì phải ăn với món gì, vì đã nhiều lần từng được thấy cha mẹ mình, bà con mình dùng các thức ấy rồi. Thói quen đã thành, không cần thầy dạy. Tuy nhiên với sự xâm nhập của các văn hóa ngoại lai như những người Huế tha hương chúng ta đang chịu đựng, thiết tưởng cũng nên ghi ra cho biết cách ăn theo lối Huế kẻo lâu dần, ngay người Huế chính cống rồi đây cũng sẽ quên cách ăn đồ ăn Huế. Người Pháp có câu nói rất đúng trong trường hợp nầy, đó là: pour fixer les idées. Vì vậy, trong bài nầy, chúng tôi xin ghi lại cách ăn theo lối Huế, để cho biết, để cho nhớ.
Ăn bún bò Huế phải dùng đũa mới trị được các con bún và miếng giò heo trong đọi bún. Tô bún bò Huế, hay đọi bún bò Huế đúng cách phải dùng con bún to mình chứ không phải thứ bún nhỏ để làm bún thang như ngoài Bắc. Khi ăn, người ta húp cả bún lẫn nước, con bún to cứ theo đà mà chạy tuột vào cổ, không gặp trở ngại nào trên đường đi xuống. Người ta dùng đôi đũa để lùa bún và nước vào miệng chứ không dùng thìa để vớt từng sợi bún hoặc húp từng muỗng nước bún như con gái nhà lành.
Vừa ăn ông vừa khen gia chủ là một người sành điệu, theo đúng tập tục ngàn xưa. Miếng thịt heo trong tô bún phải là thứ thịt của con heo cỏ thả chạy rong trong vườn, không quá dai mà cũng không quá mềm và nhất là không có mùi hôi heo.
Nói theo người Pháp thì chỉ cần một soupcon tức một thoáng mơ hồ của ruốc trong nồi bún bò là đủ. Miếng thịt heo trong nồi bún cũng phải được cạo sạch lông trước khi bỏ vào nồi chứ không thể để cho lông măng vẫn còn tua tủa, rung rinh trên miếng thịt khi thực khách đưa vào miệng.
Người Huế sành điệu thường ăn luôn cả một tô giò mới đã và thường là phải đặt cọc mụ bán bún bò trước cả tuần mới có. Nghề ăn cũng lắm công phu ! Nghĩ cho cùng, thì đâu cũng thế, khi ăn cần phải được thoải mái. Người Bắc với thú ăn chơi của họ, cũng đã có câu “Thịt gà, cơm nếp, đàn bà. Cả ba thứ ấy đều là cầm tay”!
Công dụng của hít hà không những có hít làm cho mát mà còn có hà để tỏ sự khoái lạc, vừa ý, ngấm ngầm khen bà nội trợ nấu bún ngon. Dân Huế ăn bún bò vào buổi sáng cũng như người Bắc ăn phở Bắc ban sáng. Tuy nhiên, đọi bún bò ngon nhất có lẽ là đọi bún bò ăn vào buổi chiều, khoảng từ ba đến bốn giờ chiều, lúc bà bán bún sắp sửa ra về.
Đọi bún bò lúc đó ngon là vì nước bún bò hầm cả ngày đã trở nên thấm thía, lại ăn đúng lúc bụng đang đói nên dễ ngon miệng. Vì thế, người Huế có lệ trả mua cả gánh bún cho người ta gánh nồi về sớm, một việc tiện lợi cho cả hai đàng.
Cái ngon của bánh khoái là cái ngon của dĩa rau sống, của chén nước lèo, cảm nhận cái giòn tan của miếng bánh trong miệng, cái vị nhờn của mỡ trộn với cái chát của trái vả, cái chua của lát khế, cái cay của cải ba lá đầu mùa. Ngon hơn nữa là cái thú cắn trái ớt sống để kích thích thêm khẩu vị.
Cái ngon của bánh khoái là cái cảnh tụ họp giữa bạn bè
trên cùng chiếc chiếu, được ngồi kề bên nhau trong khi phía bên ngoài là cái lạnh
của Huế về mùa xuân. Cái ngon là do câu chuyện giòn như pháo nổ giữa những người
cùng lứa cùng thì, trong cảnh mịt mù của khói cay làm mờ mắt.
Thời gian ngồi đợi giả bánh kế tiếp tưởng như là thời gian đợi chờ của đời người. Thời gian đợi chờ để cùng chia sẻ miếng bánh với người mình thương là thời gian được cùng cảm nhận một chút riêng tư với người mình để ý.
Ăn bánh khoái thường là về mùa xuân lúc cải ba lá vừa bắt đầu vươn lên dưới trời lạnh, khi con tim người Huế đang được sống lại qua mùa gió mưa, khi tâm tư đang hoạch định kế hoạch tương lai với những hy vọng tràn trề.
Thời gian ngồi đợi giả bánh kế tiếp tưởng như là thời gian đợi chờ của đời người. Thời gian đợi chờ để cùng chia sẻ miếng bánh với người mình thương là thời gian được cùng cảm nhận một chút riêng tư với người mình để ý.
Ăn bánh khoái thường là về mùa xuân lúc cải ba lá vừa bắt đầu vươn lên dưới trời lạnh, khi con tim người Huế đang được sống lại qua mùa gió mưa, khi tâm tư đang hoạch định kế hoạch tương lai với những hy vọng tràn trề.
Trên bình diện ẩm thực và tâm tình, ăn bánh khoái Huế
là ăn trong cảnh đợi chờ, để cùng nhau tìm hiểu tâm tư, để cùng nhau chia xẻ cuộc
đời vào những ngày sắp tới. Nếu ăn vội ăn vàng thì xin ai đừng ăn món bánh
khoái Huế. Tội cho cải ba lá và cũng tội cho trái vả của dân Chiêm Thành. Nói vậy
là nói thiệt lòng.
Ăn bánh Huế như vậy là không đúng theo văn hóa Huế. Ăn các thứ bánh bèo, bánh nậm, bánh bột lọc ấy cũng phải biết cách ăn cho đúng mới ngon, mới có ý nghĩa. Ăn mỗi thứ riêng rẽ mới thấy được cái đặc biệt của bánh, cái tài của người nội trợ.
Bánh bèo phải mỏng, phải có xoáy. Bánh nậm phải lép và khi cuốn lại không gãy hoặc không nát ra. Bánh bột lọc phải trong, nhụy tôm thịt bên trong phải bắt mắt và khi ăn phải vừa béo lại vừa thơm.
Ba thứ bánh Huế trong combo nầy lại dùng nước chấm khác nhau, làm sao có thể đi cùng với nhau trong combo bèo nậm lọc được. Bánh bèo dùng nước chấm ngọt, bánh nậm không cần dùng nuớc chấm nhưng bánh bột lọc thì phải dùng nước chấm mặn mới ngon. Rắc rối là thế.
Ăn bánh bèo Huế người ta có thể húp phần nước mắm còn lại trong chén, cùng với nhụy tôm còn sót lại dưới đáy chén, không phải vì tiếc của nhưng chỉ như thế mới ngon, mới thấm thía. Đấy là chưa kể ăn cho đúng điệu thì phải ăn bánh ngay trong chiếc chén đổ bánh bằng đất, lúc đang nóng mới lấy ra từ lò hấp. Chén đang nóng thường được vất vội ra ngoài khi lấy ra cho kịp giả khác nên miệng chén thường có sứt có bễ. Cũng không hề gì.
Chiếc bánh ăn trong chén sẽ ngon hơn vì thấm nước mắm hơn. Rứa mới thiệt là sành điệu. Ăn xong mỗi chén, người ta còn sắp chén chồng nhau rồi đếm chén để xem ai ăn nhiều ai ăn ít. Người ăn nhiều là người có sức sống đang lên, người ăn ít là người có thể chất yếu đuối, cô mô mà thèm lấy.
Dân sành ăn thường không ăn bánh bèo ở tiệm mà phải đợi cho được O bánh bèo nách với cái rổ bánh dưới tay mới ăn. Bánh bèo nách ăn ngon đặc biệt, không phải vì cái hơi hướm của O bánh bèo còn sót lại mà vì chiếc bánh của O đỗ đã mỏng mà lại có xoáy. Chiếc bánh trông rất bắt mắt. Đó là dấu hiệu, là con của dân đổ bánh bèo nhà nghề.
Lại thêm, bánh của O ngon là vì cái nhẹ nhàng của bàn tay O khi lấy chiếc bánh chưa chầy nhụy từ rá bánh ra, là vì cái trìu mến của O khi O sắp bánh trong cái dĩa nhỏ với chiếc chèo tre trên tay, hai ngón tay kẹp sát mũi chèo đặt nhẹ từng chiếc, từng chiếc bánh xuống lòng dĩa. Rồi O phất. O phất cái cuống lá chuối dài bằng gang tay với một đầu thò ra trên dĩa bánh bèo sau khi nhúng vào chén mỡ nước.
Đó là giai đoạn chầy bánh bèo mà dân Huế tinh nghịch một thời đã ví von với hoạt cảnh của người yếu sinh lý, khóc ba tiếng cười ba tiếng rồi ra về. Bàn tay O thoăn thoắt, ban ơn mưa móc rải nhụy tôm hồng trên dĩa bánh trước khi bưng đến cho khách ăn. Ăn chiếc bánh bèo nách đó cùng với lát thịt phay xắt mỏng chấm với nước mắm mặn, ai mà nỡ rời Huế cho đành !
Chiếc bánh lúc đó dễ bóc ra khỏi lá và cũng dễ cuốn tròn lại, không bị bể ra, không bấy ra. Chả tôm ăn kèm bánh lá thường được cắt theo hình thoi và dọn trên dĩa riêng đặt trong mâm. Chả tôm ăn phải có cái dòn của con tôm còn tươi khi bóc vỏ, không mềm nhão do pha quá nhiều bột. Nếu chả tôm ngon thì chỉ thoáng một cái là dĩa chả tôm sẽ trống rỗng, nằm chờ hơ.
Có thể nói, dân Huế ăn thiệt đại sành điệu cho rồi!
Bánh lá thường được các cụ thích vì các cụ cho là ăn nho nhã. Bánh nậm thường để
cho trẻ con ăn buổi chiều, hoặc cho kẻ đau mới dậy. Bánh lá và bánh nậm không
phải để ăn độn bụng cho no.
Ăn như vậy, các cụ bảo là ăn theo lối phàm phu tục tử. Ngoài ra, bánh nậm mà được chấm với nước mắm nguyên chất thì hương vị sẽ đậm đà hơn. Và lẽ tất nhiên, nếu có trái ớt đi cùng thì thiệt là nhứt hạng.
Bánh ít Huế có hai thứ: bánh ít trắng và bánh ít đen.
Bánh ít đen thường là ngọt, dùng để ăn tráng miệng. Bánh ít trắng có dạng tròn,
thường có nhụy là tôm rằn với thịt heo vừa mỡ vừa da. Bánh ít trắng có hai thứ:
bánh ít lá được gói trong lá chuối rồi đem hấp chín và bánh ít trần không có lá
gói nhưng cũng được hấp trên vĩ có lót lá chuối và có thoa mỡ với màu hồng của
con tôm và màu vàng của miếng mỡ thấy rõ mồn một bên trong.
Ăn như vậy, các cụ bảo là ăn theo lối phàm phu tục tử. Ngoài ra, bánh nậm mà được chấm với nước mắm nguyên chất thì hương vị sẽ đậm đà hơn. Và lẽ tất nhiên, nếu có trái ớt đi cùng thì thiệt là nhứt hạng.
Thông thường trên bánh ít trần, người ta có phết một tí nhụy tôm để sang trọng hóa chiếc bánh khi dọn ra. Một chuyên viên ẩm thực quốc tế đã viết đâu đó là người Huế còn ăn đồ ăn Huế theo nguyên tắc thẩm mỹ.
Theo cách thức ăn chung của đồ ăn Huế, bánh ít cũng phải để nguội mới ăn để cho bớt dính, để cho bớt mềm, và thường là kẹp chung với bánh ram dòn. Bánh ram cũng là bánh ít đã được ram vàng và trở nên vàng rụm dòn tan.
Khi ăn, dân Huế sành điệu kẹp dẹp bánh ít cùng với bánh ram để cùng ăn một lần. Bánh ít ram đó thường được cầm tay để ăn, vừa mềm vừa cứng, vừa có âm vừa có dương, âm dương hòa hợp. Ăn vậy mới đúng là ăn theo cách Huế, và ăn thế mới ngon.
Bánh ram ngon nhất mà tôi đã được ăn trên đất Hoa Kỳ là của một vị giáo sư trường Đồng Khánh cũ, bà Lê Thị Thanh Tâm, vợ của đồng nghiệp BS Lê Xuân Công. Tuy được ăn đã từ lâu, cũng đã gần 20 năm rồi nhưng mà mùi vị của cặp bánh ít bánh ram đó vẫn còn đeo đẳng trong trí của tôi, môt mùi vị nhớ đời. Nói vậy để biết rằng cái ngon của đồ ăn Huế khó mà quên được, cho dầu xa xôi cách mấy.
Ăn bánh bột lọc cũng không nên ăn khi quá nóng, phải đợi
khi hơi nguội mới dễ cắn hơn vì cứng mình hơn. Bánh bột lọc là thứ độn bụng và
thường được chấm với nước mắm mặn mới ngon. Chén nước mắm chấm bánh bột lọc thường
có trái ớt xanh, thứ ớt chìa vôi, được xé từng mảnh nhỏ dầm trong nước mắm.
Ớt xé nhỏ vừa cho từng mảnh ớt dòn, vừa tản mát các hột ớt, vừa để lộ cuống ớt với màng ớt mà ngày nay người ta biết là nơi tập trung của tinh túy cay Capsaicin. Dân Huế qua kinh nghiệm của tiền nhân của họ truyền lại, đã biết nghề ăn ớt từ lâu. Họ ăn ớt, vừa cắn vừa ăn, vừa ăn vừa hít hà, thiệt không có gì thú bằng.
Bánh canh Huế ngon nhất là bánh canh Nam Phổ, ở phía
dưới Vỹ Dạ. Khó có thể ăn bánh canh Nam Phổ trước hai giờ chiều vì các O nam Phổ
còn đợi cho được tôm tươi Thuận An đem lên bán mới bắt đầu nấu gánh đi bán.
Thuyền của các ngư phủ Thuận An đi biển cả đêm đến sáng mới về thấu bến nên con tôm con cá mua lúc đó tươi không đâu bằng. Chiều chiều, vừa sau buổi trưa là thấy từng đoàn mấy O gánh bánh canh mặc áo dài từ phía Vỹ Dạ tất tả gánh lên Huế bán. Người sành ăn phải biết đón đúng lúc mới có ăn, chậm là hết gánh.
Ở Huế, các nhà mê bánh canh Nam Phổ phải cho người ra
đứng sẵn ngoài đường để hướng dẫn O bánh canh vào nhà. Nói thật ra là để đi kèm
mấy O cho ăn chắc, không chạy đi mô được hết!
Đó cũng là kỷ thuật của nhà thơ lão thành Ưng Bình Thúc Giạ Thị hồi xưa
(1877-1961) đã áp dụng để chắc chắn có bánh canh Nam Phổ ăn mỗi buổi chiều. Vị
thi sĩ nầy đã mê bánh canh Nam Phổ đến nỗi đặt luôn Câu Hò Bánh Canh Nam Phổ và
dạy cho cô gái út, thi sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương, ngâm nga mỗi khi có khách đến nhà
cùng lão thi sĩ thưởng thức món ăn Huế mộc mạc nầy:
Ớt xé nhỏ vừa cho từng mảnh ớt dòn, vừa tản mát các hột ớt, vừa để lộ cuống ớt với màng ớt mà ngày nay người ta biết là nơi tập trung của tinh túy cay Capsaicin. Dân Huế qua kinh nghiệm của tiền nhân của họ truyền lại, đã biết nghề ăn ớt từ lâu. Họ ăn ớt, vừa cắn vừa ăn, vừa ăn vừa hít hà, thiệt không có gì thú bằng.
Thuyền của các ngư phủ Thuận An đi biển cả đêm đến sáng mới về thấu bến nên con tôm con cá mua lúc đó tươi không đâu bằng. Chiều chiều, vừa sau buổi trưa là thấy từng đoàn mấy O gánh bánh canh mặc áo dài từ phía Vỹ Dạ tất tả gánh lên Huế bán. Người sành ăn phải biết đón đúng lúc mới có ăn, chậm là hết gánh.
Mời chị mời anh chén bánh canh Nam Phổ,Xơi vô khỏi cổ có chất bổ có mùi hương,Lại thêm mát mẻ can trường,Sâm Cao Ly cũng sút, rượu Quỳnh tương cũng không bì
Cũng cần nói lại, nghề ăn cũng lắm công phu ! Có tiệm ăn ở Huế cũng quảng cáo giả là mình có Bánh canh Nam Phổ để mập mờ đánh lận con đen nhưng đối với người quen ăn thì thứ bánh canh Nam phổ so với các thứ bánh canh đó là một trời một vực.
Bánh canh Nam Phổ không quá đặc mà cũng không quá lỏng, con bánh không dai mà cũng không nát. Trên mặt chén, lúc múc bánh canh, chỉ cần một cái vung tay nhẹ của O bánh canh là đã có một mảng đỏ gạch cua xinh xinh, hấp dẫn và có đủ tôm cua trong chén, nghĩa là có đủ cả, không cần phải múc lần thứ hai.
Bánh canh Nam Phổ ngon là vì thế, mấy O Nam Phổ tài tình là thế. Ăn chén bánh canh, không cần nuốt, chỉ cần húp mà miếng bánh canh vẫn trôi trụt xuống như thường.
Từ các yếu tố sơ sài cấu thành ấy, vị thủy tổ Huế hồi xưa tìm ra món Cơm Hến Huế đã tạo ra được một món ăn độc đáo cho con cháu sau nầy. Thiên tài là đó. Muốn cay cũng có, muốn mặn cũng có, muốn béo cũng có, muốn thơm cũng có, muốn nước cũng có, muốn xác cũng có. Muốn nhiều mùi, nhiều vị đều có. Muốn độn bụng cũng có. muốn ăn nhẹ cũng có, muốn ăn ngon hay dở thì tùy theo mình pha chế.
Vì vậy, cơm hến Huế có đến hàng chục gia vị, kể cả ruốc Huế, có cả hàng chục thứ để pha chế vào, để rắc vào, để thêm vào cho thành đọi cơm hến lý tưởng của riêng mình. Ăn cơm hến Huế nhất thiết phải hít hà vì phải có cay mới ngon, phải có cay mới trị được mùi tanh của hến của ruốc, phải có chảy nước mắt, để nhớ đời.
Vả lại, sống ở cái xứ rừng thiêng nước độc, nghe con chim kêu cũng sợ, nghe con cá vẫy vùng cũng lo thì ớt là thứ thuốc không thể nào không có để chống lại tật bệnh, chống lại các cơn sốt hoành hành không dứt.
Giấm nuốt là một món ăn đặc biệt của Huế, không đâu có. Người Huế nào khi trở về Huế cũng muốn ăn cho được một đọi giấm nuốt trước khi lên đường ra đi tiếp. Giấm nuốt dựa trên con nuốt trong mà chỉ về mùa hè mới có. Con nuốt và con sứa ít ai phân biệt nhưng chỉ có một món giấm nuốt mà thôi.
Con nuốt chưn được để sơ trên mặt chén, màu trong sáng trên nền xanh của rau sống, mới thấy đã thèm. Nước lèo màu đỏ hồng, có thể là của nước của tôm kho đánh, sền sệt, trộn lẫn với vài miếng thịt heo nho nhỏ, vừa da vừa mỡ vừa thịt đã được rim ngọt sẵn. Ăn vô, ngậm mà nghe !
Thịt nướng Huế đi cùng với món nem nướng, đi cùng với
bánh ướt thịt nướng không phải dễ mà tìm. Thịt heo nướng phải là thịt của con
heo cỏ, thứ heo Huế nuôi sẵn, chạy rong trong vườn. Thịt không hôi mà thịt lại
rất mềm với lát da mềm ăn dòn trong miệng. Nướng lên thơm phức!
Ăn thịt nướng Huế mà ngồi chễm chệ trong nhà để cho
người làm bưng vào mà ăn là hỏng, nói theo Nguyễn Tuân! Phải vừa ăn vừa hít cái
mùi thơm thoát ra từ lò nướng mới được.
Thịt nướng ăn ngon là vì người ăn đã để cả giờ hít thở cái khói tỏa ra từ lò nướng trước khi ăn, đã hồi hộp chờ đợi gắp thịt nướng bên cạnh lò nướng, đã hưởng thụ bằng mắt miếng thịt vàng óng ả còn nổi bọt sôi của nước ướp thịt ngay từ khi còn trên bếp than hồng!
Phải thấy được O bán thịt nướng ngồi trước sân, ngửi được mùi thịt nướng thoát ra từ lò nướng, tản ra xung quanh theo làn quạt, phải thấy được khói xanh tỏa um trong sân vườn, trong cái mát của trời chiều mùa mưa, mới tận hưởng được món thịt nướng Huế.
Món cuốn Huế tuy tầm thường nhưng ăn chiếc cuốn Huế,
theo lối Huế thì mới biết là cuốn Huế thật độc đáo. Bí mật là ăn cả chiếc cuốn
! Vâng, phải lủm nguyên chiếc cuốn vào miệng, đừng cắn, đừng day và cũng đừng
ngượng ngùng với các người chung quanh. Chỉ có mình với mình, với chiếc cuốn Huế
mà thôi thì mới đúng điệu!
Khi đang ăn cuốn Huế, không nên nói chuyện mà có nói chuyện cũng không được vì hai má đang bị chùng bùng và miệng thì đang bị chúng búng. Chiếc cuốn Huế thường được cắt ngắn, mục đích là để dễ lủm vào miệng cho gọn gàng. Trên mặt chiếc cuốn Huế, các bà nội trợ Huế thường để lát thịt phay và miếng tôm chua (cuốn tôm chua) hoặc con tôm luộc chẻ đôi hoặc miếng thịt heo luộc, hoặc chỉ với rau, bún, khoai lang luộc cùng với lá diếp (cuốn lá diếp), mục đích là để cho thực khách có thể đưa vào miệng dễ dàng sau khi chấm vào nước lèo.
Thịt nướng ăn ngon là vì người ăn đã để cả giờ hít thở cái khói tỏa ra từ lò nướng trước khi ăn, đã hồi hộp chờ đợi gắp thịt nướng bên cạnh lò nướng, đã hưởng thụ bằng mắt miếng thịt vàng óng ả còn nổi bọt sôi của nước ướp thịt ngay từ khi còn trên bếp than hồng!
Phải thấy được O bán thịt nướng ngồi trước sân, ngửi được mùi thịt nướng thoát ra từ lò nướng, tản ra xung quanh theo làn quạt, phải thấy được khói xanh tỏa um trong sân vườn, trong cái mát của trời chiều mùa mưa, mới tận hưởng được món thịt nướng Huế.
Khi đang ăn cuốn Huế, không nên nói chuyện mà có nói chuyện cũng không được vì hai má đang bị chùng bùng và miệng thì đang bị chúng búng. Chiếc cuốn Huế thường được cắt ngắn, mục đích là để dễ lủm vào miệng cho gọn gàng. Trên mặt chiếc cuốn Huế, các bà nội trợ Huế thường để lát thịt phay và miếng tôm chua (cuốn tôm chua) hoặc con tôm luộc chẻ đôi hoặc miếng thịt heo luộc, hoặc chỉ với rau, bún, khoai lang luộc cùng với lá diếp (cuốn lá diếp), mục đích là để cho thực khách có thể đưa vào miệng dễ dàng sau khi chấm vào nước lèo.
Cuốn trong lớp bánh tráng Huế mỏng mảnh với màu vàng óng ánh là miếng tôm tươi lột vỏ, quết thật nhuyễn với tiêu hành nước mắm, đường tỏi, theo đúng công thức của Bà Hoàng Thị Kim Cúc, vị giáo sư gia chánh của bao đời học sinh Trường Nữ Trung Học Đồng Khánh. Phải cuốn với bánh tráng mỏng Huế chứ không phải với vỏ bọc mì hoành thánh của các chú Ba Tàu như một vài con dân Huế ở ngoại quốc đã chế biến!
Món ram Huế chế biến nầy cũng lớn gần bằng cái chả giò của dân Bắc và vì thế cũng khó mà gọi là ram Huế. Muốn làm ram Huế, con tôm phải tươi, còn nhảy khi bóc vỏ, miếng thịt còn săn và đỏ rói. Bí quyết ngon xơi là ở đó!
Xin đơn cử vài món ăn chơi Huế để mà thèm chảy nước miếng trước: Thịt gà mái tơ bóp rau răm, Cháo vịt, Bún thịt xáo, Hến xúc bánh tráng, Mít trộn, Mút ốc gạo, Ăn ốc bươu nấu sả, Xúc lớ bắp, Ăn khoai luộc, Ăn khoai nướng vùi, Ăn bắp nướng lửa than,.v.v., chưa kể đến cách ăn trái nhỡn lồng tráng miệng, cũng phải đúng cách, đúng kiểu. Không phải ăn răng cũng được. Và cũng không thể trong vài lời mà nói hết được. Nói cũng như ăn, cũng phải có lúc có thì. Xin hẹn quý vị vào lần sau vậy.
*
Ghi chú của chủ trang Bâng Khuâng:
“Nuốt” là tên gọi theo phương ngữ về con nuốt - là một loài nhuyễn thể không chân chỉ có nhiều vào mùa hè tại các vùng đầm phá nước lợ ở Huế, Quảng Trị, Quảng Bình. Nuốt cùng họ với sứa nhưng nhỏ chỉ bằng khoảng nửa trái chanh. Cứ mỗi độ vào mùa hè, nuốt thường nổi thành từng mảng dày, những người ngư dân vớt lên, ngâm vào nước và bán nhiều ở các chợ đầu mối. Nuốt được chia làm 2 phần gồm tai và chân. Phần tai rất thích hợp để kẹp với các loại rau sống, trái vả xắt lát chấm với ruốc hoặc làm gỏi. Nhưng đặc sắc nhất phải kể đến chân nuốt, giòn giòn, sần sật - làm nên linh hồn của món ăn trứ danh: Bún giấm nuốt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét