NGẬM
NGÙI
Nắng
chia nửa bãi; chiều rồi...
Vườn
hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu.
Sợi
buồn con nhện giăng mau;
Em
ơi! hãy ngủ... anh hầu quạt đây.
Lòng
anh mở với quạt này;
Trăm
con chim mộng về bay đầu giường.
Ngủ
đi em, mộng bình thường!
Ru
em sẵn tiếng thuỳ dương mấy bờ...
Cây
dài bóng xế ngẩn ngơ...
-
Hồn em đã chín mấy mùa thương đau?
Tay
anh em hãy tựa đầu,
Cho
anh nghe nặng trái sầu rụng rơi
Cù Huy Cận
“Ngậm
Ngùi” là bài thơ của thi sĩ Huy Cận sáng tác từ thời tiền
chiến, ra mắt độc giả vào năm 1940 trong tập Lửa Thiêng. Gần 20 năm sau đó, nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc cho bài
thơ này để trở thành ca khúc Ngậm Ngùi, đã đi vào lòng công chúng yêu nhạc với
ca từ da diết và điệu nhạc u buồn.
Hầu như ai cũng nghĩ là “Ngậm Ngùi” được thi sĩ Huy Cận viết về mối tình yêu đương đôi lứa thông thường. Nhưng thật ra hoàn cảnh để sáng tác bài thơ này không phải vậy, đây là bài thơ được Huy Cận sáng tác với nỗi buồn đau, thương tiếc, khi về lại quê thăm mộ em gái út của mình.
Năm 1990, Cù Huy Chử, em của Cù Huy Cận, đã thổ lộ với
phóng viên:
“Quê
Huy Cận ở Nghệ An, ông bố là một thầy đồ nho hết thời, tất cả trông nhờ vào sự
tần tảo lam lũ của vợ. Ông bố là thầy đồ nên suốt đời chẳng làm ăn gì cả, ăn ở
không suốt ngày ngồi gặm cái quạt buồm đến nỗi nó vẹt mòn mất cả cán. Nhà lại
đông con, có đến 7 anh chị em.
Huy
Cận rất thương cô em gái út. Vì nhà nghèo lại đông con nên ông phải vào Huế
giúp việc cho một người bà con để được nuôi ăn học.
Ở
nhà cô út chỉ quanh quẩn bên mẹ. Ngày xưa liên lạc đâu phải dễ dàng. Cô út khoảng
10 thuổi thì bị đậu mùa rồi qua đời. Nghỉ hè, Huy Cận về nhà mới biết em út đã
mất.
Ông
ra thăm mộ em ở cuối vườn, nơi có trồng mấy cây thông reo. Cỏ mắc cỡ lẫn cỏ dại
trùm cả ngôi mộ”.
Sau đó, vào năm 1991, chính Huy Cận cũng xác nhận hoàn
cảnh để sáng tác bài thơ Ngậm ngùi là
đúng như em trai của ông đã nói: Viết sau khi thăm mộ của em gái nhỏ bạc mệnh:
Nắng
chia nửa bãi chiều rồi
Vườn
hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu
Sợi
buồn con nhện giăng mau
Em
ơi hãy ngủ anh hầu quạt đây
Tựa đề của bài thơ là “Ngậm Ngùi” nên khi vào bài, tác giả vẽ nên cảnh buồn của chiều vắng,
nắng cũng “chia nửa bãi”, như biết sẻ
chia tâm sự buồn bã của lòng người anh trai khi ra thăm mộ em gái.
“Nắng
chia nửa bãi chiều rồi” – Hầu như những người thích thi ca
thời tiền chiến đều quen thuộc với câu thơ ấn tượng này, như lửng lơ giữa thực
và mộng trong không gian tiếp giáp giữa ngày và đêm.
Vườn xưa giờ đã như vườn hoang đầy các loài cỏ dại, và
trong các loại cỏ dại đó có loài cỏ đã quen thuộc với tuổi thơ của hầu hết mọi
người: cây mắc cỡ, còn gọi là cây trinh nữ. Hoa trinh nữ có màu hồng nhạt đẹp
đơn sơ và lá cây cỏ mỗi lần đụng đến là tự động xếp lá lại, như Huy Cận đã tả
loài cỏ hoa dại này rất hay: “Vườn hoang
trinh nữ xếp đôi lá rầu”.
Hình ảnh sợi tơ nhện giăng được cho là “sợi buồn” nghe như nỗi buồn mất em gái
bàng bạc khắp nơi…, và “Em ơi hãy ngủ anh
hầu quạt đây”, như vẫn tưởng là em vẫn đang ngủ đấy thôi, hai tiếng “hầu quạt” thương yêu và trân trọng cho
người nghe cảm xúc cảm động về tấm lòng yêu mến của người anh đang trìu mến quạt
ru em ngủ.
Lòng
anh mở với quạt này
Trăm
con chim mộng về bay đầu giường
Ngủ
đi em, mộng bình thường
Ngủ
đi em, mộng bình thường
Ru
em sẵn tiếng thùy dương đôi bờ
Ngủ
đi em, ngủ đi em…
Ngủ
đi mộng vẫn bình thường
À
ơi có tiếng thùy dương mấy bờ…
Tấm tình yêu mến thương của anh, mở ra với quạt này ru
em vào giấc ngủ ngon có “trăm con chim mộng
về bay đầu giường”. Ru giấc tuổi thơ em vào “mộng bình thường”, bình yên như bao giấc mộng đẹp ở trên đời. Vỗ về
em vào giấc gọi là “mộng bình thường”
là vì quá yêu mến em nên anh không muốn tin là em đã ngủ yên trong lòng đất. Vẫn
tin em vẫn còn bé bỏng ngây thơ như ngày nào, vẫn còn ra vườn hái hoa cỏ dại
bày những trò chơi con nít của ngày xưa, vẫn ngủ giữa những trưa hè bên quạt hầu
của mẹ, của anh chị thân yêu.
Ru em vào mộng bình thường, anh sẵn sàng hầu quạt làn
gió mát, và đôi bờ thùy dương sẵn tiếng vi vút như lời ru quê hương đưa em vào
giấc ngủ như những ngày còn thơ. Thùy dương là loài cây dương liễu được trồng
nhiều ở miền Trung nên ở đây còn được gọi là miền Thùy dương, như bài hát Về Miền Trung cũng của Phạm Duy có câu: “Về miền Trung miền thùy dương bóng dừa ngàn
thông”…
“Ru
em sẵn tiếng thùy dương mấy bờ” là câu nguyên tác của
bài thơ, đem đến cho người nghe cảm nhận về tình yêu thương ấm áp gia đình,
ngoài thâm tình ruột thịt, còn có tình quê hương bàng bạc từ tiếng ru của mấy bờ
thùy dương ở khắp nơi đầu núi cuối biển, cho đến khu vườn nhỏ quen thuộc đầy ắp
kỷ niệm ấu thơ. Và lời ru của quê hương này đã ru từng giấc ấu thơ và đi theo
ta trong suốt cuộc đời…
Cây
dài bóng xế ngẩn ngơ
Hồn
em đã chín mấy mùa buồn đau
Tay
anh, em hãy tựa đầu
Cho
anh nghe nặng trái sầu rụng rơi…
Âm điệu bỗng vút cao lên như hàng thùy dương ngẩn ngơ
giữa bóng xế hoàng hôn. Vút cao lên bàng hoàng giữa nỗi buồn bã trong giây phút
cõi mộng đã nhường cho cõi thực: một sự thật không thể chối từ được là em đã
không còn ở trên cõi đời này. Và anh ngậm ngùi nỗi thương tâm, hỏi em gái nhỏ
thương yêu: “Hồn em đã chín mấy mùa buồn
đau?”. Đây cũng chính là nỗi lòng của anh đã chín đau buồn mấy mùa thương
tiếc…
Trái buồn đau đã chín qua mấy mùa biết mùa nào mới
lãng khuây. Tay anh đây em hãy tựa đầu như ngày xưa em vẫn còn bé bỏng, anh vẫn
thường quạt ru em vào giấc ngủ trẻ thơ. Em hãy tựa đầu vào tay anh để “cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi…”,
nghe như tiếp nối nỗi buồn biết bao giờ mới nguôi ngoai…
Như vậy mặc dù hầu như ai cũng nghĩ là “Ngậm Ngùi” được thi sĩ Huy Cận viết về
mối tình yêu đương đôi lứa nhưng thật ra hoàn cảnh để sáng tác bài thơ này
không phải vậy, đây là bài thơ được Huy Cận sáng tác với nỗi buồn đau, thương
tiếc, khi về lại quê thăm mộ em gái út của mình.
*
Cũng như bao thính giả yêu thích ca khúc Ngậm Ngùi,
ban đầu tôi cứ tưởng bài thơ này dành riêng cho tình yêu trai gái. Vì ca từ được
phổ thơ lục bát của Huy Cận quá hay nên ai cũng đọc và nghe, phớt qua nội dung
của từng câu thơ. Sau này khi biết bài thơ được Huy Cận làm cho em gái út của
mình đã qua đời, tôi mới chú ý đến câu: “Hồn
em đã chín mấy mùa buồn đau” và cho hoàn cảnh sáng tác của bài thơ này như
lời thổ lộ của hai anh em nhà thơ Huy Cận là chính xác!
Bài thơ được Huy Cận in trong tập Lửa Thiêng vào năm
1940, bao trùm “Lửa Thiêng” là một nỗi
buồn mênh mang da diết. Thiên nhiên trong tập thơ này thật bao la, hiu quạnh, đẹp
nhưng buồn, một nỗi buồn thương về cuộc đời, kiếp người.
Nhạc sĩ Phạm Duy nói trong hồi ký: “Tôi yêu thơ Huy Cận từ khi chưa bước vào thế
giới âm nhạc… Có thể nói, sau ca dao, Thơ Mới (nhất là thơ trong cuốn “Lửa
Thiêng”), ngay từ đầu, đã là chất liệu nuôi dưỡng con người soạn ca khúc là
tôi. Trong loại nhạc tình cảm con người của tôi, nếu có thêm hồn vũ trụ, đó là
nhờ ở những bài thơ Huy Cận”.
Gần 20 năm sau khi Ngậm Ngùi ra mắt, nhạc sĩ Phạm Duy
phổ nhạc cho bài thơ Ngậm Ngùi. Tuy nhiên trong vài năm đầu, bài hát này không
gây được nhiều chú ý như những tác phẩm khác của ông. Đến đầu thập niên 1960, sự
xuất hiện của Lệ Thu trong làng nhạc đã làm sống dậy ca khúc này, đưa Ngậm Ngùi
trở thành một trong những bài nhạc phổ thơ thành công nhất của nhạc sĩ Phạm
Duy, và sau đó chính nhà thơ Huy Cận đã gửi lời cảm ơn Phạm Duy về việc giúp
bài thơ này thêm nổi tiếng.
Thập niên 1960. Lệ Thu là ca sĩ ăn khách tại phòng trà
Queen Bee hàng đêm, và ca khúc Ngậm Ngùi luôn được khán giả yêu cầu nhiều nhất.
Trong số những khán giả đó có nhà văn Duyên Anh, sau khi nghe Lệ Thu hát Ngậm
Ngùi, ông đã viết một bài báo gọi giọng ca trẻ Lệ Thu là Tiếng Hát Vàng Mười,
nghĩa là giọng hát quý như vàng không có pha trộn.
Trương Đình Tuấn
Nguồn:
https://nhacvangbolero.com/hoan-canh-sang-tac-bai-tho-bai-hat-ngam-ngui-huy-can-pham-duy-nang-chia-nua-bai-chieu-roi/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét