Khi tôi viết những dòng chữ này thì ba tôi đã an nghỉ
trong lòng đất. Ba tôi thọ 84 tuổi. Những người đến chia buồn đều cho ông cụ đã
thuộc vào hạng “xưa nay hiếm”. Nhưng
trong tôi, đó là một nỗi mất mát lớn lao không gì thay thế được. Ba tôi là một nhà giáo nghiêm túc, hiền lành từ thời
Pháp thuộc. Ngay từ khi còn nhỏ, tôi đã ý thức được mình có một gia đình hạnh
phúc. Chưa bao giờ tôi thấy ba mẹ cãi nhau. Hai người xưng hô bằng từ “mình ơi” nghe rất dịu. Ba đi làm, mẹ nội
trợ, sáu anh chị em cắp sách đến trường. Một khuôn mẫu của gia đình cách đây
năm mươi năm trước. Năm tôi lên tám tuổi thì mẹ mắc bệnh. Một căn bệnh nan
y mà đến giờ y học vẫn bó tay: ung thư. Mẹ tôi nằm sáu tháng tại nhà thương Huế.
Dù bác sỹ giám đốc Lê Khắc Quyến đã lắc đầu nhưng ba tôi vẫn không chịu bó tay.
Người xin nghỉ việc đưa mẹ vào Sài Gòn với suy nghĩ “còn nước còn tát”. Sáu anh chị em bắt đầu thấm thía nỗi côi cút
trong căn nhà vắng. Rồi từ Sài Gòn mẹ trở về với làn da xanh mét, thân
hình gầy guộc. Mắt ba sâu hơn, nụ cười thường nhật biến mất. Tất cả chỉ còn đợi
thời gian… Ba đặt một chiếc giường song song cạnh giường mẹ. Trong giấc ngủ trẻ
con, nửa đêm tỉnh giấc tôi vẫn thấy ba ngồi nghiêng mình bên mẹ chăm sóc, vỗ về. Mẹ tôi có một cái hộp bánh LU của Pháp. Trong đó người
cất vòng xuyến, chuỗi ngọc hồi môn, những cái kiềng vàng của các con, tiền dành
dụm của gia đình. Nhưng cái hộp càng lúc càng cạn dần. Tiền của lần lượt đội
nón ra đi. Rồi vay mượn… Khi mẹ tôi mất thì gia đình hoàn toàn khánh kiệt. Suốt
đời tôi chẳng thể nào quên cảnh ba ngồi khất nợ với một người bà con. Mội người đàn ông góa vợ lúc 48 tuổi và sáu đứa con dại!
Bây giờ tôi mới thấm thía với nỗi vất vả của ba. Chúng tôi không còn người giúp
việc. Ba lập một cái sổ thu chi hằng tháng. Chị Hảo chị Hà đi chợ hàng ngày. Tôi
nhỏ nhất cũng có bổn phận dọn bàn, lau chén. Chẳng thể còn những món ăn ngon thời
mẹ còn sống. Cái bàn tay vốn quen cầm bút của chị tôi chiên trứng thì trứng
cháy, nấu canh bữa mặn bữa nhạt, vậy mà ba tôi không hề trách móc, than thở. Có
hôm người xuống bếp thay mẹ bảo ban chị. Việc trường, việc nhà chất nặng trên
đôi vai ba. Mất mẹ tôi ngủ với ba. Thói quen sờ vú của một đứa con
gái út không dễ bỏ đi một sớm một chiều. Ba đã ôm ấp tôi, gối đầu tay cho tôi
ngủ, cho tôi mân mê vú ba thay vú mẹ trong tiếng thở dài thầm kín. Và cứ thế, cuộc đời gà trống nuôi con của ba lặng lẽ
qua đi. Ba trả nợ, ba thu xếp cho các con ăn học nên người với số lương còm cỏi
của một giáo viên. Mỗi lần anh chị tôi đi thi, không bao giờ ba quên thắp nhang
trên bàn thờ mẹ thầm vái van một sự độ trì. Năm tôi học đệ tứ - tương đương lớp 9 thời nay - qua sự
thu xếp của ông chú, ba tôi có ý định tục huyền với một người quen cũ, nghe đâu
cũng là một cô giáo. Các anh đã lớn không có ý kiến gì. Chị Hà vào bàn thờ mẹ
khóc. Tôi quay mặt vào tường, đêm ấy không nói với ba một lời. Quá nửa khuya,
tôi vẫn nghe tiếng ba trở mình. Và đó cũng là lần cuối cùng. Không bao giờ
chúng tôi còn nghe ba có ý định lấy ai. Ôi, cái lòng ích kỉ tệ hại của tôi! Giá như ngày ấy chị
em tôi biết nghĩ suy hơn một tí. Giá như tôi ý thức được rằng rồi mình cũng sẽ
bỏ ba đi tìm một thứ gọi là hạnh phúc, thì hẳn rằng chúng tôi sẽ không ngăn cản
ba có môt niềm an ủi khi chúng tôi lần lượt chắp cánh bay xa. Ngày ba về hưu thì tôi đang ở năm ba Đại học sư phạm,
nối tiếp cái nghề truyền thống của gia đình. Các anh chị đã trưởng thành, mỗi
người đều có một sự nghiệp tương đối trong xã hội. Tưởng đâu ba đã thong thả tuổi
già, an nhàn trong sự bảo bọc của các con, mãn nguyện với hương hồn mẹ. Miền Nam “được” giải phóng. Đất nước chấm dứt cuộc nội
chiến nhưng gia đình tôi lại có nỗi đau riêng. Anh ruột và hai anh rể đi học tập.
Ba tôi lại tất bật từ Đà Nẵng vào Quy Nhơn, từ Quy Nhơn lên Đà Lạt giữ cháu cho
các chị tôi lăn lộn chợ trời, làm lụng kiếm sống. Còn một chút của cải phòng
thân, người cũng ngắt ra giúp cho các chị thêm chút vốn liếng nuôi con. Sự hy sinh của ba to lớn quá mà chúng tôi nào có cơ hội
đáp đền! Sau này khi cuộc sống dần khá lên, các anh chị có điều kiện xuất cảnh
gửi tiền về chu cấp thì ba vẫn cứ một đời sống khiêm cung giản dị. Ba đến thăm
nhà đứa con nào thì nhà ấy phong quang, sạch sẽ, hoa cỏ tốt tươi. Tám mươi tuổi
ba vẫn hái cà phê. Ngăn không cho ba làm thì ba bảo có lao động mới khỏe. Ba
già mà tính không chướng. Ba vui vẻ thăm hỏi mọi người từ trong làng ra ngoài
xóm. Ai cũng khen ba phúc hậu, quắc thước, phong thái ung dung. Có lần đưa ba về
Sài gòn dự buổi họp mặt của cựu học sinh Trường trung học Nguyễn Hoàng - Quảng
Trị, ba tươi tắn biết bao nhiêu khi đón bó hoa tươi thắm mừng thọ của học trò,
của các cô thầy đồng nghiệp. Vậy mà tự dưng ba bỗng yếu đi bất ngờ. Ba có nhiều câu
lẩn thẩn. Ba bắt đầu nói về cái chết. Ba kể những câu chuyện 40, 50 năm về trước.
Ba sống trong hồi ức xa xăm. Tôi đã có cái hạnh phúc được chăm ba những ngày cuối
đời. Tôi bón cho ba thìa cháo, muỗng sữa. Tôi tắm cho ba, xoa nắn làn da mồi và
những khớp xương gầy… Nhưng tôi vẫn chưa làm được những gì so với công ơn trời
biển của ba. Trong những phút tỉnh táo ba vẫn băn khoăn, đau xót cho sự gãy đổ
hạnh phúc của đời tôi. Anh chị đến đón, ba không về. Ba muốn sống và chết ở nhà
đứa con út thiệt thòi nhiều thứ. Và đúng là “phụ
tử tình thâm”. Cái sáng thứ hai ấy, đang dạy ở trường lòng tôi bỗng như lửa
đốt. Tôi bỏ dở tiết dạy ra về và kịp chứng kiến sự ra đi của người cha yêu dấu.
Tám mươi tư tuổi. Ba mươi sáu năm ở vậy nuôi con. Trải qua những biến cố thăng
trầm, đời ba khổ nhiều hơn sướng. Đám tang của ba tôi có rất nhiều thầy cô giáo và học
sinh. Học sinh cũ của ba và của tôi hiện tại. Một số ở xa cũng đánh điện chia
buồn. Âu cũng là một niềm an ủi cho nghề giáo đạm bạc mà thanh cao. Ba ơi! Nếu quả thật có một thế giới bên kia cực lạc
thì con chắc chắn rằng ba đang ở đó. Và xin hương hồn ba ghi nhận tấm lòng tri
ân của các con trước sự hi sinh thầm lặng suốt cuộc đời ba. Ngô Hương Thủy
BÀI VIẾT ngắn nhưng cảm động biết bao. Không có cái khổ nào cho người đàn ông hay người cha phải mất vợ sớm. Người con mất mẹ sớm cũng thế; do người cha phải thay thế chức năng của người nội trợ thì chật vật biết bao. Bao nhiêu tình cảm của người cha nhân đôi đối với con sau khi vợ mình mất Công lao và tình thương đó chắc chắn Ngô H Thủy nhớ mãi suốt đời
2 nhận xét:
BÀI VIẾT ngắn nhưng cảm động biết bao. Không có cái khổ nào cho người đàn ông hay người cha phải mất vợ sớm. Người con mất mẹ sớm cũng thế; do người cha phải thay thế chức năng của người nội trợ thì chật vật biết bao. Bao nhiêu tình cảm của người cha nhân đôi đối với con sau khi vợ mình mất
Công lao và tình thương đó chắc chắn Ngô H Thủy nhớ mãi suốt đời
Bài hồi ký cảm động cho người đọc , thanks Thủy
Đúng như nhà văn Đinh Hoa Lư nhận xét, hồi ký của nhà văn Ngô Hương Thủy hay và thật cảm động !
https://1.bp.blogspot.com/-sfZQEzHkjks/YFREF6d1ByI/AAAAAAAAUU0/aRvTheLO3OsdUjJ6W_sK8axIh8nktcOZgCLcBGAsYHQ/w516-h640/50199904_294278784586063_7008905826958049280_n.gif
Đăng nhận xét