Nguồn:
https://phongtraogiaodan.com/a384/bo-tuc-mot-so-su-lieu-ve-chien-thang-dong-da-5-thang-gieng-ky-dau-1789-
https://phongtraogiaodan.com/a384/bo-tuc-mot-so-su-lieu-ve-chien-thang-dong-da-5-thang-gieng-ky-dau-1789-
- Vua Quang Trung đã áp dụng chiến thuật gì để chiến thắng trận Ngọc Hồi: dùng những bó rơm cuốn tròn lăn đi trước hay dùng những tấm ván để đỡ đạn?
- Tại sao Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên (quyển 30) và Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (quyển 27) ghi chép khác nhau?
- Sử nhà Thanh và sử nhà Nguyễn: bên nào chính xác hơn?
(5 tháng Giêng Kỷ
Dậu, 1789)
GS Nguyễn Lý-Tưởng
Hình ảnh vị anh hùng áo vải đất Tây Sơn đã đi vào sử
sách như là một thiên tài quân sự. Cứ mỗi lần Tết đến, chúng ta lại có dịp nhắc
đến chiến công oai hùng của vua Quang Trung qua trận chiến thắng Đống Đa ngày
mùng 5 Tết Kỷ Dậu (30-01-1789). Hôm nay, chào đón Xuân về, chúng tôi xin cống
hiến quý vị bài nghiên cứu sau đây dưới nhãn quan của một người nghiên cứu sử học,
căn cứ vào những sử liệu hiện có, với tinh thần khoa học, gạt ra ngoài những yếu
tố tình cảm hay định kiến.
1. Hoàn cảnh lịch sử: Tây Sơn khởi nghĩa ở Quy Nhơn,
Tây Sơn hòa với Trịnh để rảnh tay diệt
Nguyễn ở Gia Định, Nguyễn Hữu Chỉnh vào Quy Nhơn dẫn đường cho Tây Sơn chiếm
Phú Xuân rồi thẳng ra Thăng Long phò Lê diệt Trịnh...
Nguyễn Nhạc khởi
nghĩa ở Tây Sơn năm 1772, chiếm được Quy Nhơn, Quảng Ngãi, Quảng Nam và trên đường
tiến ra kinh đô Phú Xuân của chúa Nguyễn. Cuối năm Giáp Ngọ (đầu năm 1775), tướng
Trịnh là Hoàng Ngũ Phúc đem quân vào chiếm Thuận Hóa, chúa Nguyễn Phúc Thuần
đem vợ, con gái và người cháu là Nguyễn Phúc Ánh chạy vào Gia Định, để người
con của Thế tử Hiệu là Nguyễn Phúc Dương ở lại Đà Nẵng... Tây Sơn hòa với Trịnh
và đem quân đánh chúa Nguyễn ở Gia Định.
Năm Mậu Tuất (1778), chúa Nguyễn bị Tây Sơn giết ở Gia
Định. Tại Quy NHơn, Nguyễn Nhạc tự lập làm vua niên hiệu Thái Đức. Tại Bắc Hà,
chúa Trịnh Sâm mất, các quan chia làm hai phe: phe ủng hộ Trịnh Tông, con trưởng
Trịnh Sâm, và phe ủng hộ Trịnh Cán, con của Đặng Thị Huệ lên ngôi chúa. Lính
Tam Phủ (thường gọi là Kiêu binh) nổi loạn, lật đổ Trịnh Cán, giết Hoàng Đình Bảo,
người đứng đầu phe Đặng Thị Huệ, rồi đưa Trịnh Tông lên ngôi... Nguyễn Hữu Chỉnh
là đàn em của Hoàng Đình Bảo chạy vào Quy Nhơn báo cáo tình hình Bắc Hà cho
Nguyễn Nhạc biết và dẫn đường cho quân Tây Sơn tiến ra Bắc đánh quân Trịnh.
Nguyễn Nhạc cho em là Nguyễn Huệ đem quân đánh lấy Phú
Xuân và thừa thắng, kéo quân thẳng ra chiếm Thăng Long lấy danh nghĩa “Phò Lê, Diệt Trịnh”. Vua Lê gả con gái
là Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ để cậy nhờ thế lực của Tây Sơn, giữ ngai vàng. Nguyễn
Nhạc nghe tin Nguyễn Huệ ra Bắc liền đuổi theo Nguyễn Huệ, khuyên em nên trả nước
lại cho vua Lê, rồi kéo quân về.
Quân Tây Sơn trở về Phú Xuân đem theo 60 thuyền của cải
mà họ vơ vét được trong kho tàng của vua Lê, chúa Trịnh. Nguyễn Huệ nắm quyền
chủ động trong việc phân chia chiến lợi phẩm nầy. Nguyễn Nhạc trở về Quy Nhơn bắt
giam vợ con Nguyễn Huệ không cho ra Phú Xuân. Nguyễn Huệ đem quân vào Quy Nhơn
đánh Nguyễn Nhạc...
Sau khi biết tin anh em Tây Sơn ban đêm âm thầm bỏ
Thăng Long rút quân về Nam, Nguyễn Hữu Chỉnh liền kéo quân chạy theo Tây Sơn.
Nguyễn Nhạc bèn cho Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại giữ đất Nghệ An.
Quân Tây Sơn và Nguyễn Hữu Chỉnh đi rồi thì con cháu họ
Trịnh trở về Thăng Long áp bức vua Lê. Vua Lê kêu cứu Nguyễn Hữu Chỉnh... Trong
khi Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc đánh nhau thì Nguyễn Hữu Chỉnh ở Nghệ An đem quân
ra Thăng Long phò Lê diệt Trịnh. Phe ủng hộ chúa Trịnh bị Nguyễn Hữu Chỉnh đánh
bại, chúa Trịnh bỏ chạy, vua Lê Chiêu Thống bèn cho người đốt phủ chúa. Nguyễn
Hữu Chỉnh đương nhiên thay thế vai trò chúa Trịnh ngày trước ở Bắc Hà.
Được tin Nguyễn Hữu Chỉnh đi khỏi Nghệ An, Nguyễn Huệ
liền sai Võ Văn Nhậm từ Hà Tĩnh đem quân ra chiếm Nghệ An và cho người theo dõi
tình hình vua Lê ở Thăng Long. Từ tháng 11, 1786 đến tháng 5, 1787, Nguyễn Hữu
Chỉnh nắm hết mọi quyền hành không coi vua Lê ra gì. Ông còn cho người mang thư
vào Phú Xuân đòi Nguyễn Huệ trả lại đất Nghệ An cho vua Lê.
2. Nguyễn Hữu Chỉnh thao túng Bắc Hà nên bị quân Tây
Sơn giết, Lê Chiêu Thống cầu viện nhà Thanh
Nguyễn Huệ được tin đó bèn sai Võ Văn Nhậm, con rể
Nguyễn Nhạc, và hai tướng Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân đem quân từ Nghệ An ra Bắc
diệt Nguyễn Hữu Chỉnh. Ngày 01 tháng 11 Đinh Mùi (09/12/1787) quân của Nhậm vào
Thăng Long, Nguyễn Hữu Chỉnh bị phanh thây. Vua Lê Chiêu Thống lẩn trốn trong
dân chúng và lên tiếng kêu gọi cần vương, chống lại quân Tây Sơn. Một phái đoàn
do Lê Quýnh cùng Thái Hậu qua Trung Hoa cầu viện nhà Thanh.
Trong khi Nguyễn Huệ bận đối phó với Nguyễn Nhạc ở Quy
Nhơn và Nguyễn Hữu Chỉnh ở Bắc Hà thì Nguyễn Phúc Ánh từ Xiêm trở về Long
Xuyên. Nhờ Nguyễn Văn Trương giúp, Nguyễn Phúc Ánh đã xây dựng được một lực lượng
mới và được Bá Đa Lộc cùng một số người Pháp có tàu chiến giúp, đã chiếm lại
toàn bộ đất Gia Định. Ngày 8 tháng 8 âm lịch năm Mậu Thân (tức 7 tháng 9, 1788)
ông đã kéo quân vào Sài Gòn, Nguyễn Lữ chạy về Quy Nhơn và chết ở đó.
3. Nguyễn Huệ giết Võ Văn Nhậm
Võ Văn Nhậm thay Nguyễn Hữu Chỉnh cai trị đất Bắc Hà,
ông cho lính đi lục xét từng nhà dân chúng để tìm lại các báu vật trong cung
vua bị mất trong thời gian loạn lạc. Quân Tây Sơn tuy chiếm được Thăng Long
nhưng lực lượng vua Lê chúa Trịnh vẫn còn ở các tỉnh. Đinh Tích Nhưỡng, Hoàng
Viết Tuyển vẫn còn đóng quân ở vùng Hải Dương và Kinh Bắc (Bắc Ninh). Vì thế,
ông phải huy động dân chúng ngày đêm xây thành đắp lũy để phòng bị. Võ Văn Nhậm
cũng tỏ ra hống hách khiến cho những người ra cộng tác thì mất tin tưởng, những
người chưa cộng tác thì lẫn tránh, ẩn thân nơi quê nhà. Võ Văn Nhậm là con rể của
Nguyễn Nhạc mà giữa Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đã có mối hiềm khích từ khi ra Bắc
trở về năm 1786. Do đó, mặc dù Võ Văn Nhậm làm trấn thủ Bắc Hà, nhưng Nguyễn Huệ
vẫn đặt Ngô Văn Sở theo dõi hành vi của Nhậm để mật báo cho ông biết. Theo
Hoàng Lê Nhất Thống Chí (trang 173) và Đại Nam Liệt Truyện Chính Biên (quyển 30
trang 28, 30) thì Ngô Văn Sở khuyên Võ Văn Nhậm nên đặt quan cai trị đất Bắc, đừng
đặt Lê Duy Cẩn làm Giám Quốc sau khi Lê Chiêu Thống bỏ trốn và đừng đóng quân ở
trong thành. Nhưng Võ Văn Nhậm không chịu, ông muốn đặt Lê Duy Cẩn để ông đứng
đằng sau điều khiển việc nước như Nguyễn Hữu Chỉnh trước đây. Lê Duy Cẩn là con
của Lê Hiển Tông, anh của Ngọc Hân, người mà trước đây công chúa đã muốn đưa
lên làm vua sau khi Lê Hiển Tông chết... nhưng hoàng gia lại muốn chọn cháu
đích tôn của vua Lê là Lê Duy Kỳ tức Lê Chiêu Thống, theo di chiếu. Võ Văn Nhậm
ngồi một chỗ ở Thăng Long và sai các tướng đi đánh dẹp các nơi. Thấy rõ tham vọng
của Võ Văn Nhậm nên Ngô Văn Sở đã viết tờ trình bắt Phan Văn Lân cùng ký vào để
gởi cho Nguyễn Huệ.
Nhận được thư của Ngô Văn Sở, Nguyễn Huệ đã tức tốc ra
Bắc. Ông đến Thăng Long vào ban đêm, không cho Võ Văn Nhậm biết, chỉ có Ngô Văn
Sở ra đón. Nguyễn Huệ đến ngay dinh của Võ Văn Nhậm, cho đọc bản án tuyên bố tội
trạng, và sai một võ sĩ tên là Hoàng Văn Lợi thi hành bản án, chém đầu Võ Văn
Nhậm ngay trước mặt ông rồi đặt Ngô Văn Sở lên thay. Nguyễn Huệ cũng thành lập
ngay một Bộ Tham Mưu để giúp Ngô Văn Sở đối phó với tình hình. Bộ Tham Mưu gồm
có các tướng của Tây Sơn như Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Dũng, Nguyễn Văn Tuyết
(cháu của Nguyễn Huệ)... và những người của vua Lê chúa Trịnh theo Tây Sơn như
Phan Huy Ích, Ngô Thời Nhiệm, Ninh Tốn, Nguyễn Bá Lân... Những vị khoa bảng nhà
Lê không theo Tây Sơn như Bùi Huy Bích (giữ chức Tham Tụng, tương đương Thủ Tướng),
Phạm Quý Thích, Nguyễn Huy Trạc, Nguyễn Văn Hợp, v.v... đã bỏ về quê hoặc lánh
mặt.
Nguyễn Huệ cho phép Ngô Văn Sở được quyền giải quyết mọi
công việc không cần phải hỏi ý kiến của ông nhưng phải họp Bộ Tham Mưu bàn bạc,
tính toán cho thật chu đáo. Ông khuyên mọi người không được phân biệt cũ, mới,
không được hiềm khích chia rẽ.
Phải bắt cho được Lê Chiêu Thống mới ổn định được tình
hình ở Bắc Hà, vì thế khi nghe tin Lê Chiêu Thống đang lẩn tránh tại làng Chí
Linh tỉnh Hải Dương trong vùng Đinh Tích Nhưỡng kiểm soát, Ngô Văn Sở liền cho
một toán quân nhỏ đi bắt vua. Nhưng toán quân nầy đã bị lực lượng của Trần
Quang Chiêu ở địa phương giết sạch. Sở liền cho đại binh đến, nhưng vua đã trốn
qua trấn Sơn Nam ở trong nhà Trương Đăng Quỹ và nhờ lực lượng của Hoàng Viết
Tuyển bảo vệ. Ngô Văn Sở bắt cha mẹ, vợ con Hoàng Viết Tuyển viết thư khuyên
Tuyển ra hàng. Nhưng Tuyển từ chối. Sở bèn cho cha mẹ vợ con của Tuyển ngồi
thuyền đi trên sông bắc loa kêu gọi... Tuyển thấy vậy bèn rút quân, nhưng bất
ngờ bị bao vây, quân Tuyển tan rã, Tuyển bỏ trốn. Vua được tin đó, cũng trốn
vào vùng Thanh Hóa, Sở không tìm được.
4. Quân Thanh xâm lăng
Đoàn tùy tùng do Thái Hậu, mẹ vua Lê Chiêu Thống gồm
64 người qua Trung Hoa cầu viện nhà Thanh. Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị
lợi dụng cơ hội đó đã tâu xin vua Càn Long (tức Cao Tông nhà Thanh) mượn danh
nghĩa phò Lê để đem quân chiếm nước ta. Sách “Khâm Định Việt Sử Thông Giám
Cương Mục”, một bộ sử lớn nhất nước ta do Quốc Sử Quán triều Nguyễn biên soạn
trong thế kỷ 19, quyển 47 trang 32-33 trích lại một đoạn trong tờ trình của Tôn
Sĩ Nghị cho biết âm mưu thâm độc của nhà Thanh như sau: “ Kẻ kế vị nhà Lê phải
lưu lạc, nghĩa nên cứu giúp, vả lại An Nam là đất cũ của Trung Quốc, nên sau
khi khôi phục nhà Lê, hãy dùng binh mà chiếm lấy, làm như thế vừa bảo tồn được
nhà Lê, vừa lấy được An Nam, một công hai việc”.
Tháng 10 năm Mậu
Thân (tức tháng 11, 1788) quân Thanh tuyển từ 4 trấn Quảng Đông, Quảng Tây, Quý
Châu, và Vân Nam, chia làm hai đường tiến xuống nước ta:
- Tôn Sĩ Nghị, Tổng Đốc Lưỡng Quảng làm Tiết Chế và Đề
Đốc Hứa Thế Hanh làm Phó từ Quảng Tây đi vào Ải Nam Quan (Lạng Sơn)
- Ô Đại Kinh chỉ huy đạo quân từ Vân Nam xuống vào Đào Giang tiến đến Tuyên Quang.
- Sầm Nghi Đống, Tri Phủ Điền Châu chỉ huy đạo quân từ Điền Châu. (1)
- Thượng Duy Thanh, Tổng Binh Quảng Tây và Phó Tướng Khánh Thành chỉ huy quân Quảng Tây.
- Trương Triều Long,(2) Tổng Binh Quảng Đông và Phó Tướng Lý Hóa Long chỉ huy quân Quảng Đông.
Theo “Đại Thanh
Thông Sử” (sử của nhà Thanh) trang 137 thì quân Thanh tất cả khoảng vài vạn:
Tôn Sĩ Nghị và Hứa Thế Hanh có một vạn, để lại ở Vân Nam hai ngàn còn đem vào
nước ta tám ngàn. Quân của Ô Đại Kinh gồm tám ngàn. Ngoài ra, số người Hoa buôn
bán ở nước ta tập hợp được một vạn theo quân Thanh. Các sử gia căn cứ trên các
tài liệu về quân lương (lương thực tiếp tế cho lính khi hành quân) thì quân
chính quy của nhà Thanh khoảng hai vạn, cộng với quân mới tuyển chừng một vạn.
Quân nhà Lê ở các tỉnh khoảng mười vạn người. Tính chung tất cả quân Thanh và
quân của nhà Lê là mười ba vạn. Theo sử của ta thì quân Thanh có hai mươi vạn.
Sử nhà Thanh cũng nói rõ, khi Tôn Sĩ Nghị vào nước ta, đã ra một thông báo nói
là quân Thanh có năm mươi vạn, mục đích hư trương thanh thế, làm cho đối phương
mất tinh thần chiến đấu.
Tôn Sĩ Nghị ban hành tám điều luật căn bản cho lính
như sau:
1. Phải nghiêm chỉnh không được cướp bóc.
2. Phải cẩn thận kẻo bị mai phục.
3. Chỗ đóng quân phải vững chắc và phải đề phòng.
4. Phải có biện pháp hữu hiệu đánh với voi.
5. Dùng lá chắn bằng da trâu sống để chống hỏa hổ.
6. Phải làm cầu phao để qua sông, khi lội qua sông cạn phải giữ thuốc súng để khỏi bị ướt.
7. Củi, than, rau phải mua, không được cướp; nếu đi hái phải đề phòng; nước uống phải tránh nước độc.
8. Các quan phải coi xét việc hưu tuất (trợ cấp cho lính), phu và lính phải tử tế với nhau.
Căn cứ vào sử liệu nhà Thanh, chúng ta thấy Tôn Sĩ Nghị
là người cẩn thận, không xem thường quân Tây Sơn.
Trấn Thủ Thăng Long là Ngô Văn Sở được tin, bèn họp
các quan cũ nhà Lê bắt làm thư mang lên Ải Nam Quan cho Tôn Sĩ Nghị nói rằng
trong lúc vua Lê Chiêu Thống mất tích tìm chưa ra, hào kiệt trong nước đã cử Lê
Duy Cẩn (chú ruột của vua) lên làm Giám Quốc, xin hứa sẽ triều cống Trung Hoa
và sẽ rước Thái Hậu trở về... mục đích để tìm kế hoãn binh. Nhưng Ngô Thời Nhiệm
lại đề nghị rút quân cả thủy lẫn bộ về núi Tam Điệp và Biện Sơn để bảo toàn lực
lượng, tránh đụng độ lúc ban đầu, đợi Nguyễn Huệ đem quân ra tăng cường, vừa để
chờ xem thái độ quân Thanh và phản ứng của dân chúng như thế nào.
Kế hoạch nầy, về phương diện tâm lý chính trị đã làm
cho địch trở nên kiêu căng, khinh thường không đề phòng. Dân chúng cũng cần có
thời gian để hiểu rõ bộ mặt thật giả nhân giả nghĩa của quân Thanh và vai trò
bù nhìn của vua Lê, từ đó mới ủng hộ cuộc chiến đấu chống xâm lăng của Tây Sơn.
Như chúng ta đã thấy, kế hoạch nầy về sau quả thật linh nghiệm và Sở đã nghe
theo lời của Ngô Thời Nhiệm.
Phái bộ Nguyễn Quý Nho được phái mang thư đến Nam Quan
cho Tôn Sĩ Nghị đã không liên lạc được với quân Thanh vì cửa biên giới bị đóng
và quân Thanh đã vào Đại Việt rồi nên phải quay về Thăng Long. Riêng Phan Văn
Lân không chịu thi hành lệnh rút quân, ông đã đem quân đến sông Thọ Xương và đụng
độ với đoàn quân Quảng Tây của Thượng Duy Thanh, rồi đoàn quân Quảng Đông của
Trương Triều Long. Quân ta phải rút lui. Phan Văn Lân ra lệnh phá cầu phao. Địch
kết bè qua sông.
Từ 13 tháng 11 năm Mậu Thân (1788) bắt đầu đụng độ với
quân Thanh cho đến ngày 17, quân ta phải rút lui nhiều đợt. Đêm 19, quân ta lại
phản công, Hứa Thế Hanh đích thân chỉ huy, cướp được một số thuyền nhỏ khoảng
ba mươi chiếc và chở được hai ngàn lính qua sông. Quân Thanh xông vào đốt trại
Tây Sơn, quân ta bỏ chạy tán loạn. Có người chạy vào các làng lân cận nhưng
sáng hôm sau đều bị dân chúng bắt nộp cho quân Thanh. Riêng Phan Văn Lân thì
phi ngựa chạy về Thăng Long rồi theo Ngô Văn Sở rút về Tam Điệp. Việc thất trận
của Lân, Ngô Văn Sở dấu không cho mọi người biết.
Ngày 20 tháng 11 âm lịch (Mậu Thân), quân Thanh vượt
qua sông Hồng Hà. Lúc đó quân Tây Sơn đã rút đi xa và ngày 21, đã tới Tam Điệp
an toàn. Quân Thanh vào Thăng Long như chỗ không người. Vì chiến thắng quá dễ
dàng nên họ đã trở nên kiêu căng và không còn nhớ đến tám điều quân lệnh của
Tôn Sĩ Nghị nữa.
5. Dân chúng bất mãn về Lê Chiêu Thống và quân Thanh
Nghe tin quân Thanh vào nước ta, Lê Chiêu Thống liền
cho Lê Duy Đản mang thư lên tận biên giới chào mừng và xin lỗi vì bị bệnh không
đến được. Khi được tin quân Tây Sơn đã rút khỏi Thăng Long, vua cho các tướng
đem nghĩa quân đi đóng giữ các nơi và chỉ
giữ một ngàn quân để làm cận vệ. Khi quân Thanh vào Thăng Long thì vua từ Kinh
Bắc cũng trở về theo sau quân Thanh. Vua cho người mang trâu, rượu đến dâng cho
quân Thanh để khao quân. Ngày 20-11 Mậu Thân (1788), quân Thanh vào Thăng Long,
các cựu thần và hoàng tộc nhà Lê ra đứng hai bên đường cùng dân chúng lạy tạ.
Ngày 22 tháng 11 âm lịch, Tôn Sĩ Nghị đọc tuyên chiếu của vua nhà Thanh phong
cho Lê Chiêu Thống làm An Nam Quốc Vương. Vua quỳ giữa sân điện Kính Thiên để
nhận sắc phong. Vua thảo tờ biểu tạ ơn dâng lên vua Thanh, hứa sẽ đích thân
sang chúc thọ bát tuần của vua Càn Long (1790, Canh Tuất)... Mỗi ngày vua phải
thân hành đến dinh của Tôn Sĩ Nghị đợi lệnh. Cựu thần nhà Lê lục tục kéo về, họp
nhau lên án những người theo Tây Sơn hoặc không hết lòng với vua khi vua lâm hoạn
nạn. Họ cho như thế là đã yên thân rồi và không ai nghĩ đến chuyện đánh Tây
Sơn. Vua quan nhà Lê cũng như quân Thanh tha hồ yến tiệc liên hoan. Bọn người
Hoa sinh sống buôn bán ở nước ta tập hợp nhau thành một đạo quân, chúng dẫn đường
cho quân Thanh đi cướp bóc, hãm hiếp dân lành. Hoàng Lê Nhất Thống Chí (ký sự lịch
sử của Ngô Gia Văn Phái) viết rằng: “Giữa đồng, giữa chợ, họ (quân Thanh) cũng
cướp giật tiền bạc, hãm hiếp đàn bà con gái không kiêng sợ gì”. Vua Lê cũng biết
những chuyện đó nhưng không dám kêu trách! Dân chúng và trí thức Bắc Hà chán nản,
thất vọng, lòng người ly tán... Trong tình thế đó, quân Tây Sơn trở lại, đánh
đuổi quân Thanh, chắc chắn sẽ được dân chúng ủng hộ.
Theo chỉ thị của Càn Long gởi cho Tôn Sĩ Nghị thì quân
Thanh chỉ đóng quân không đuổi theo Tây Sơn. Chờ Tây Sơn đánh nhau với quân nhà
Lê. Nếu Nguyễn Huệ thua thì đặt nhà Lê lên, nếu Nguyễn Huệ thắng thì sẽ đánh Huệ,
sau đó, chia nước làm hai. Từ Nghệ An trở ra trao cho vua Lê, từ Nghệ An trở
vào trao cho Nguyễn Huệ... Quân Thanh chia ra đóng các đồn Hà Hồi, Ngọc Hồi,
Vân Điển và Khương Thượng, quân nhà Lê đóng ở Giản Thủy. Theo kế hoạch thì quân
Thanh nghỉ ngơi, ăn Tết xong mới nói đến chuyện hành quân đi đánh Tây Sơn.
6. Nguyễn Huệ đối phó với quân Thanh
Ngô Văn Sở cho Nguyễn Văn Tuyết (tức đô đốc Tuyết,
cháu của Nguyễn Huệ) vào Phú Xuân báo cáo tình hình Bắc Hà cho Nguyễn Huệ. Được
tin quân Thanh đã vào nước ta, Nguyễn Huệ thét lên: “Đồ chó má, sang đây để mà
chết” (Theo Vãn Lê Dị Sử, tr. 66).
- Ô Đại Kinh chỉ huy đạo quân từ Vân Nam xuống vào Đào Giang tiến đến Tuyên Quang.
- Sầm Nghi Đống, Tri Phủ Điền Châu chỉ huy đạo quân từ Điền Châu. (1)
- Thượng Duy Thanh, Tổng Binh Quảng Tây và Phó Tướng Khánh Thành chỉ huy quân Quảng Tây.
- Trương Triều Long,(2) Tổng Binh Quảng Đông và Phó Tướng Lý Hóa Long chỉ huy quân Quảng Đông.
2. Phải cẩn thận kẻo bị mai phục.
3. Chỗ đóng quân phải vững chắc và phải đề phòng.
4. Phải có biện pháp hữu hiệu đánh với voi.
5. Dùng lá chắn bằng da trâu sống để chống hỏa hổ.
6. Phải làm cầu phao để qua sông, khi lội qua sông cạn phải giữ thuốc súng để khỏi bị ướt.
7. Củi, than, rau phải mua, không được cướp; nếu đi hái phải đề phòng; nước uống phải tránh nước độc.
8. Các quan phải coi xét việc hưu tuất (trợ cấp cho lính), phu và lính phải tử tế với nhau.
Để cho danh chính ngôn thuận, Nguyễn Huệ đã
quyết định lên ngôi hoàng đế, ông đã đổi tên là Nguyễn Quang Bình và lấy niên
hiệu là Quang Trung. Việc đó có hai ý nghĩa:
- Thứ nhất, từ đây ông không còn là Nguyễn Huệ, em của
Nguyễn Nhạc;
- Thứ hai, ông không còn là Bắc Bình Vương, tướng của Nguyễn Nhạc.
Không còn liên hệ gì với Nguyễn Nhạc, có nghĩa là
không còn phải tuân lệnh của Nguyễn Nhạc, không còn chịu trách nhiệm về những
việc làm sai trái, mất chính nghĩa của Nguyễn Nhạc. Bây giờ, ông là một nhân vật
mới của giai đoạn lịch sử mới. Ông là Hoàng Đế của một giang sơn mới, có dân,
có lãnh thổ, có triều đình và quân đội riêng để có thể nhân danh đất nước của
mình, nhân danh dân tộc của mình mà hành động hợp với chính nghĩa bảo vệ tổ quốc,
chống xâm lăng. Sử sách xưa như Hoàng Lê Nhất Thống Chí hay là sử nhà Nguyễn
thường gọi Nguyễn Huệ là “Bình” khởi đi từ đó. Bình đây không phải là Bắc Bình
Vương mà là Nguyễn Quang Bình. Các con của ông cũng lấy tên Nguyễn Quang như
Nguyễn Quang Toản, Nguyễn Quang Thùy, v.v....
Ông cho lập đàn, tế cáo trời đất và lên ngôi Hoàng Đế.
Ngày 25 tháng 11 âm lịch năm Mậu Thân (22-12-1788) một cuộc diễn binh được tổ
chức dưới chân núi Ba Vành (phía Nam Ngự Bình). Ông đọc tuyên cáo kêu gọi binh
sĩ chiến đấu chống xâm lăng:
“...Quân
Thanh sang xâm lấn nước ta hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng
vũ trụ, trời nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng. Phương Nam, Phương Bắc chia
nhau mà cai trị... Từ đời Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết
hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi
chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành,
đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nở ngồi
nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người dấy nghĩa binh, đều chỉ
đánh một trận là thắng và đuổi chúng về phương Bắc. Ở các thời kỳ ấy, Bắc Nam
riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài... Nay người Thanh lại
sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời
Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy, ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng về”
(Hoàng Lê Nhất Thống Chí)
Ngày 29 tháng 11 Mậu Thân (1788), vua Quang Trung chỉ
huy đạo quân Thuận Quảng lên đường từ Huế ra Nghệ An. Đây là đạo quân tinh nhuệ
đã giúp vua bách chiến bách thắng trong các trận đánh bại quân Xiêm, quân Trịnh,
và mới đây đánh Nguyễn Nhạc ở Quy Nhơn. Trong đạo quân nầy có voi, ngựa, thuyền
lớn, v.v... Tới Nghệ An, ở lại đó 10 ngày để tuyển thêm quân, cứ ba người dân
thì chọn một người khỏe mạnh cho làm lính. Đất Nghệ An vốn là đất anh hùng,
không thiếu gì hạng trai tráng khỏe mạnh, biết võ nghệ, biết chiến đấu. Còn những
người dân ở hai bên bờ sông Gianh cũng đã từng quen chinh chiến hàng trăm năm rồi.
Quang Trung chỉ cần huấn luyện cấp tốc những điều căn bản là họ có thể chiến đấu.
Tại đây ông cũng đã tiếp xúc với La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, một danh sĩ đương
thời, ẩn dật không hợp tác với họ Trịnh. Nguyễn Thiếp đã hiến kế và cho rằng kế
hoạch của Ngô Thời Nhiệm đưa ra là hợp lý.
Vua Quang Trung có trong tay khoảng mười vạn quân và
trên dưới hai trăm con voi (có tài liệu nói hơn 100 voi). Lính Thuận Quảng làm
tiền quân và lính Nghệ An làm trung quân. Thời xưa chỉ có vua và tướng mới đi
ngựa hay voi. Lính phải đi bộ. Vua ra lệnh cứ ba người lính thì dùng một cái
cáng, hai người gánh, một người nghỉ, thay nhau đi suốt ngày đêm cho mau. Từ Huế
ra đến Tam Điệp khoảng 500 cây số chỉ đi trong 10 hôm (nghỉ ở Nghệ An 10 hôm để
tuyển thêm quân). Hơn 20 ngày sau, tức 20 tháng Chạp, quân đến Tam Điệp. Vua gặp
Ngô Văn Sở và Ngô Thời Nhiệm khen kế hoạch Ngô Thời Nhiệm đưa ra. Vua cũng
không trách phạt Ngô Văn Lân thua trận. Sau khi bố trí kế hoạch hành quân, ngày
30 tháng Chạp trong khi cho lính ăn Tết trước, vua Quang Trung tuyên bố: “Nay hãy ăn Tết Nguyên Đán trước, đợi đến
sang Xuân, ngày mồng 7 vào thành Thăng Long sẽ mở tiệc lớn. Các ngươi hãy ghi
nhớ lấy lời ta xem có đúng không?” Lời tuyên bố đầy tin tưởng, đầy quyết thắng
ấy làm nức lòng binh sĩ, làm cho họ hăng say chiến đấu và đã đem lại thắng lợi.
Vua Quang Trung cũng gởi cho Tôn Sĩ Nghị một bức thư chê Nghị là quan văn mà
dám đem quân sang Đại Việt...
Theo kế hoạch
thì:
- Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân chỉ huy Tiền quân đi tiên
phong.
- Hô Hổ Hầu lãnh Hậu quân tiếp ứng cho Tiền quân.
- Đại Đô Đốc Lộc và Đô Đốc Tuyết chỉ huy Hữu quân cùng Thủy quân đi đường biển vào sông Lục Đầu. Đô Đốc Tuyết sẽ kiểm soát vùng Hải Dương, Đô Đốc Lộc kiểm soát vùng Lạng Giang, Phượng Nhãn, Yên Thế chặn đường quân Thanh chạy về.
- Đô Đốc Bảo và Đô Đốc Mưu chỉ huy Tả quân và Tượng quân đi đường núi xuống mặt phía Tây, vào Chương Đức, làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì đánh đạo quân Điền Châu. Đô Đốc Bảo chỉ huy đoàn voi theo đường huyện Sơn Lãng ra Đại Áng tiếp ứng cho mặt tả.
- Vua Quang Trung chỉ huy Trung quân, vượt Sơn Nam, tấn công vào Bộ Chỉ Huy của Tôn Sĩ Nghị.
Quân ta lên đường vào 30 Tết, trong lúc quân Thanh còn
đang vui chơi ăn Tết không hay biết và cũng không đề phòng. Đến đồn Giản Thủy,
tướng nhà Lê là Lê Phùng Nghĩa, trấn thủ Sơn Nam đóng ở đó, không đánh mà bỏ chạy.
Đêm 3 Tết, quân ta đến vây đồn Hà Hồi, tiền đồn của Ngọc Hồi (huyện Thường Tín,
Hà Đông), nửa đêm dùng loa hô một tiếng, quân sĩ dạ vang. Địch sợ cuống quýt,
xin hàng. Ta tịch thu nhiều quân trang, khí giới. Trận nầy quân ta chiến thắng
quá dễ dàng.
- Thứ hai, ông không còn là Bắc Bình Vương, tướng của Nguyễn Nhạc.
(Hoàng Lê Nhất Thống Chí)
- Hô Hổ Hầu lãnh Hậu quân tiếp ứng cho Tiền quân.
- Đại Đô Đốc Lộc và Đô Đốc Tuyết chỉ huy Hữu quân cùng Thủy quân đi đường biển vào sông Lục Đầu. Đô Đốc Tuyết sẽ kiểm soát vùng Hải Dương, Đô Đốc Lộc kiểm soát vùng Lạng Giang, Phượng Nhãn, Yên Thế chặn đường quân Thanh chạy về.
- Đô Đốc Bảo và Đô Đốc Mưu chỉ huy Tả quân và Tượng quân đi đường núi xuống mặt phía Tây, vào Chương Đức, làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì đánh đạo quân Điền Châu. Đô Đốc Bảo chỉ huy đoàn voi theo đường huyện Sơn Lãng ra Đại Áng tiếp ứng cho mặt tả.
- Vua Quang Trung chỉ huy Trung quân, vượt Sơn Nam, tấn công vào Bộ Chỉ Huy của Tôn Sĩ Nghị.
Tại đồn Ngọc Hồi, quân Thanh bố trí phòng thủ kiên cố,
có thành lũy chắc chắn, trên thành có đặt đại bác, bên ngoài vòng rào có địa
lôi. Vua Quang Trung ra lệnh kết ba tấm ván thành một bức, bện rơm ướt cho 10
người khiêng đi trước, mang theo đoản đao. Có 20 người theo sau với đầy đủ khí
giới. Voi tiên phong mở đường tiến vào.(3)
Gần sáng mồng 5, quân ta đánh đồn Ngọc Hồi. Trong đồn không liên lạc được với Hà Hồi nên không biết Hà Hồi đã bị quân ta chiếm. Đạn trong đồn Ngọc Hồi bắn ra như mưa. Voi của ta xông vào phá lũy, lính theo sau, gần giáp địch thì bỏ ván, nhảy ra đánh cận chiến, dùng đoản đao rất lợi hại. Toán sau, với đầy đủ khí giới cũng xông vào. Quân Thanh bị chết rất nhiều, trốn ra ngoài đạp trúng địa lôi của ta mai phục và bị voi của ta chà đạp... Ngọc Hồi cách Thăng Long khoảng 14 cây số là một căn cứ chiến lược quan trọng, do Hứa Thế Hanh là Phó Tướng của Tôn Sĩ Nghị chỉ huy. Các đồn Văn Điển, Yên Quyết gần đó cũng bị quân ta chiếm. Các tướng Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long, Thượng Duy Thanh của nhà Thanh đều tử trận.
Tôn Sĩ Nghị ở Thăng Long được tin báo liền cho Dương Hồng
Nghiệp cùng 20 kỵ sĩ, có hai người Việt Nam là Phạm Khải Đức và Lê Quang Châu
theo để thăm dò tình hình. Nhưng không kịp nữa rồi vì quân Tây Sơn đã đến Thăng
Long với cờ dong, trống mở, đại bác nổ rền trời. Tôn Sĩ Nghị không kịp mang áo
giáp, thắng yên cương, lên ngựa chạy về hướng Bắc, bỏ lại cả ấn tín và giấy tờ
quan trọng. Tại Yên Phụ, thấy lính của mình chạy qua cầu quá đông nên Tôn Sĩ
Nghị ra lệnh cắt đứt cầu để chạy cho nhanh và tránh quân Tây Sơn đuổi theo.
Lính Thanh rơi xuống sông, chết rét, chết đuối rất nhiều. Chạy đến Phượng Nhãn
(Bắc Ninh) bị Đô Đốc Lộc đuổi, phải chạy tiếp không nghỉ chân được. Thuật lại lời
của một vị tướng dưới quyền của Tôn Sĩ Nghị, sách “An Nam Quân Doanh Kỷ Yếu” của Trần Nguyên Nhiếp viết rằng:
“Tôi với Chế Hiếu (Tôn Sĩ Nghị) đói cơm, khát nước, không kiếm đâu ra được ăn uống, cứ phải đi suốt bảy ngày, bảy đêm mới đến trấn Nam Quan”. Sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí viết rằng: “Tôn Sĩ Nghị sợ vỡ mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp, dẫn bọn lính kỵ mã của mình chuồn trước qua cầu phao, rồi nhăm hướng Bắc mà chạy”.
(Bản dịch của Nguyễn Đức Vân ...sđd, trang 226)
Gần sáng mồng 5, quân ta đánh đồn Ngọc Hồi. Trong đồn không liên lạc được với Hà Hồi nên không biết Hà Hồi đã bị quân ta chiếm. Đạn trong đồn Ngọc Hồi bắn ra như mưa. Voi của ta xông vào phá lũy, lính theo sau, gần giáp địch thì bỏ ván, nhảy ra đánh cận chiến, dùng đoản đao rất lợi hại. Toán sau, với đầy đủ khí giới cũng xông vào. Quân Thanh bị chết rất nhiều, trốn ra ngoài đạp trúng địa lôi của ta mai phục và bị voi của ta chà đạp... Ngọc Hồi cách Thăng Long khoảng 14 cây số là một căn cứ chiến lược quan trọng, do Hứa Thế Hanh là Phó Tướng của Tôn Sĩ Nghị chỉ huy. Các đồn Văn Điển, Yên Quyết gần đó cũng bị quân ta chiếm. Các tướng Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long, Thượng Duy Thanh của nhà Thanh đều tử trận.
“Tôi với Chế Hiếu (Tôn Sĩ Nghị) đói cơm, khát nước, không kiếm đâu ra được ăn uống, cứ phải đi suốt bảy ngày, bảy đêm mới đến trấn Nam Quan”. Sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí viết rằng: “Tôn Sĩ Nghị sợ vỡ mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp, dẫn bọn lính kỵ mã của mình chuồn trước qua cầu phao, rồi nhăm hướng Bắc mà chạy”.
“Đô đốc nước Thanh là Hứa Thế Hanh, Tổng binh là Trương Triều Long, Thượng Duy Thăng, Tri phủ Điền Châu là Sầm Nghi Đống đều chết cả. Tôn Sĩ Nghị ở bãi cát nghe tin báo, một mình cỡi ngựa chạy về Bắc, tướng sĩ tranh cầu để sang sông, cầu gãy ôm lấy nhau xô nhau lăn xuống sông chết đuối kể đến hàng vạn, nước sông Nhị Hà vì thế chảy không được”
“Huệ sai quân đuổi theo đến cửa ải Lạng Sơn, nói phao lên rằng quân qua cửa ải đánh giết không sót người nào, cốt tìm cho được chỗ Chiêu Thống đế ở. Người nước Thanh cả sợ, từ cửa quan trở về mạn Bắc, người già, trẻ con bồng bế nhau chạy, vài trăm dặm tuyệt không có người ở.”
(Đại Nam Liệt Truyện Chính Biên, sđd, tr. 519)
“Vua Lê trong điện, nghe tin có việc biến ấy, vội vã cùng bọn Lê Quýnh, Trịnh Hiến đưa Thái hậu ra ngoài. Cả bọn chạy đến bờ sông thì thấy cầu phao đã đứt, thuyền bè cũng không, bèn gấp rút chạy đến Nghi Tàm thình lình gặp được chiếc thuyền đánh cá, vội cướp lấy rồi chèo sang bờ Bắc. Trưa ngày mồng 6, vua Lê và những người tùy tùng chạy đến núi Tam Tằng, nghe nói Tôn Sĩ Nghị đã đi khỏi đó”.
(Cao Tông Thực Lục, quyển 1321 tờ 868, bản dịch, trích tài liệu của Hồ Bạch Thảo, đăng trên đặc san Tây Sơn Bình Định, Xuân Bính Tuất 2006, trang 145-146)
Trong trận Ngọc Hồi có một số chi tiết mà các sử gia ghi chép khác nhau:
“Mờ sáng mồng 5, tiến sát đến lũy Ngọc Hồi, trên lũy đạn bắn xuống như mưa, Huệ sai chiến sĩ đội ván gỗ để xông vào trận, mà tự thúc voi đốc đằng sau. Khi đã phá được cửa lũy, đều ném ván gỗ xuống đất, đem dao ngắn chém bừa đi, quân nước Thanh chống chọi không được, tan vỡ chạy ra bốn mặt gặp máy chôn ngầm, lại bị chấn địa lôi nổ ra, chết và bị thương rất nhiều”
(Đại Nam Liệt Truyện Chính Biên, quyển 30, bản dịch của
Viện Sử Học Hà Nội, nhà xuất bản Thuận Hóa 1993, trang 518).
Hoàng Lê Nhất Thống
Chí (Ngô Gia Văn Phái) cũng diễn tả như vậy:
“Vua Quang Trung lại truyền lấy 60 tấm ván, cứ ghép liền ba tấm thành một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là 20 bức. Đoạn kén loại lính khỏe mạnh, cứ 10 khiêng một bức, lưng giắt dao ngắn. Hai mươi người khác đều cầm binh khí theo sau, dàn thành trận chữ “nhất”; vua Quang Trung cưỡi ngựa voi đi đốc thúc, mờ sáng ngày mồng 5 tiến sát đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ súng bắn ra chẳng chết người nào cả. Nhân có gió Bắc, quân Thanh bèn dùng ống phun khói lửa ra, khói tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy gì, hòng làm cho quân Nam rối loạn. Không ngờ trong chốc lát trời bỗng trở gió Nam, thành ra quân Thanh lại tự làm hại mình.
Vua Quang Trung liền sai đội khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên phía trước. Khi gươm giáo hai bên đã chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao ngắn chém bừa; những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới mà đánh. Quân Thanh chống không nổi bỏ chạy tán loạn, dày xéo lên nhau mà chết. Tên Thái thú Điền Châu Sầm Nghi Đống tự thắt cổ chết. Quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại”.
(Hoàng Lê Nhất Thống Chí, bản dịch của Nguyễn Đức Vân
và Kiều Thu Hoạch, trang 223-224)
Nhưng, theo “Khâm
Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục” (do Quốc Sử Quán nhà Nguyễn biên soạn)
thì nói rằng Quân Tây Sơn “đã dùng những
bó rơm to lớn che đỡ mà lăn xả vào” chứ không dùng “ván gỗ che đỡ”...
Để hiểu rõ diễn
tiến tình hình chiến sự giữa quân Tây Sơn và quân nhà Thanh lúc đó, chúng tôi
xin trích lại toàn bộ đoạn văn trong sách “Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục”
như sau:
“Kỷ Dậu năm thứ 3 (1789) (Thanh, năm Càn Long thứ 54). Mồng 1 tháng Giêng... Mùa Xuân quân nhà Thanh đánh nhau với Nguyễn Văn Huệ ở địa phận hai huyện Thượng Phúc và Thanh Trì, bị thua: bọn đề đốc Hứa Thế Hanh, tiền phong Trương Sĩ Long, tả dực Thượng Duy Thăng và tri phủ Điền Châu Sầm Nghi Đống đều chết trận; Tôn Sĩ Nghị phải chạy về Quảng Tây...
Sĩ
Nghị từ khi qua cửa ải, đến đâu được đấy, có ý khinh địch. Lấy được Thăng Long
rồi, Sĩ Nghị tự cho rằng thế là xong việc. Những hào kiệt ở các trấn đi ứng
nghĩa đều đua nhau đến cửa quân xin Sĩ Nghị tiến binh, nhưng đều bị bỏ qua,
không được hỏi đến. Kịp khi được thủ chiếu của vua Thanh ra lệnh cho Sĩ Nghị phải
khôi phục hết đất đai cho Lê Vương, mới được rút quân về, Sĩ Nghị bấy giờ mới
tính đến mưu kế tiến hành.
Đến
đây, quân Văn Huệ kéo đến đèo Ba Dội (Tam Điệp Sơn), nhà vua được tin, lấy làm
lo sợ, hỏi Sĩ Nghị về mưu kế, Sĩ Nghị nói: ‘Ta cứ thế thong thả để chờ đợi ứng
phó với kẻ đang nhọc nhằn, cần chi phải hấp tấp đánh vội’. Thế rồi Sĩ Nghị
dương dương tự đắc, không để ý đến nữa.
Giặc
ruổi dài ra Bắc, không có lấy một người hay một quân kỵ nào chống lại cả. Khi
giặc đến Sơn Nam, Sĩ Nghị sai đề đốc Hưa Thế Hanh đem quân tứ dực đi trước,
chia đóng ở Hà Hồi và Ngọc Hồi để chống cự lại.
Ngày
4 tháng Giêng ấy, quân lưu động của giặc đến trước, hễ đánh trận nào thì thua
luôn trận ấy. Sĩ Nghị rất coi khinh.
Hồi
trống canh năm sớm hôm sau. Văn Huệ xắn tay áo đứng dậy, đốc thúc bản bộ lùa
quân rầm rộ tiến lên. Chính Văn Huệ tự mình đốc chiến, cho hơn trăm voi khỏe đi
trước. Tờ mờ sáng, quân Thanh lùa toán quân kỵ tinh nhuệ ồ ạt tiến. Chợt thấy bầy
voi, ngựa quân Thanh đều sợ hãi, hí lên, tế chạy, lồng lộn quay về, chà đạp lẫn
nhau. Giặc lại lùa voi xông đến: quân Thanh, trong cơn gấp rút, không cứu nhau
được, ai nấy rút vào trong lũy để cố thủ. Bốn mặt đồn lũy quân Thanh đều cắm chông
sắt, súng và tên bắn ra như mưa. Giặc (Tây Sơn) dùng những bó rơm to lớn để che
đỡ mà lăn xả vào, rồi quân tinh nhuệ tiến theo sau. Kẻ trước ngả, người sau nối,
thảy đều trổ sức liều chết mà chiến đấu. Các lũy quân Thanh đồng thời tan vỡ và
quân Thanh đều chạy. Giặc đuổi đến đồn Nam Đồng, thừa thắng, ập lại giết chết.
Quân Thanh bị chết và bị thương đến quá nửa. Thế Hanh, Tiên phong Trương Sĩ
Long (Trương Triều Long), và tả dực Thượng Duy Thăng đều chết trận. Sầm Nghi Đống
đóng đồn ở Loa Sơn (tục gọi Đống Đa), bị một tướng khác của giặc đánh. Quân cứu
không có, Nghi Đống phải tự thắt cổ chết. Toán thân binh của Nghi Đống cũng tự ải
chết theo đến vài trăm người.
Bấy
giờ ở nơi màn trướng, thình lình được tin quân giặc đã bức bách gần Thăng Long.
Sĩ Nghị không biết xoay xở ra sao, bèn nhổ đồn lũy, vượt qua sông, chạy. Cầu
gãy, người bị chết vô kể”.
(Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, quyển XLVII,
bản dịch của Viện Sử Học Hà Nội, 1998, tr.845- 847)
“Vua Quang Trung lại truyền lấy 60 tấm ván, cứ ghép liền ba tấm thành một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là 20 bức. Đoạn kén loại lính khỏe mạnh, cứ 10 khiêng một bức, lưng giắt dao ngắn. Hai mươi người khác đều cầm binh khí theo sau, dàn thành trận chữ “nhất”; vua Quang Trung cưỡi ngựa voi đi đốc thúc, mờ sáng ngày mồng 5 tiến sát đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ súng bắn ra chẳng chết người nào cả. Nhân có gió Bắc, quân Thanh bèn dùng ống phun khói lửa ra, khói tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy gì, hòng làm cho quân Nam rối loạn. Không ngờ trong chốc lát trời bỗng trở gió Nam, thành ra quân Thanh lại tự làm hại mình.
Vua Quang Trung liền sai đội khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên phía trước. Khi gươm giáo hai bên đã chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao ngắn chém bừa; những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới mà đánh. Quân Thanh chống không nổi bỏ chạy tán loạn, dày xéo lên nhau mà chết. Tên Thái thú Điền Châu Sầm Nghi Đống tự thắt cổ chết. Quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại”.
“Kỷ Dậu năm thứ 3 (1789) (Thanh, năm Càn Long thứ 54). Mồng 1 tháng Giêng... Mùa Xuân quân nhà Thanh đánh nhau với Nguyễn Văn Huệ ở địa phận hai huyện Thượng Phúc và Thanh Trì, bị thua: bọn đề đốc Hứa Thế Hanh, tiền phong Trương Sĩ Long, tả dực Thượng Duy Thăng và tri phủ Điền Châu Sầm Nghi Đống đều chết trận; Tôn Sĩ Nghị phải chạy về Quảng Tây...
(Xin lưu ý: sử nhà Nguyễn thường gọi Tây Sơn là Giặc hay Ngụy Tây).
“Thanh
Thông Giám” (sử nhà Thanh) cũng nói rằng quân Tây Sơn
dùng những bó rơm lớn lăn tròn để làm bia đỡ đạn... Xin đọc đoạn văn sau đây
trích từ sử nhà Thanh để so sánh:
“Ngày mồng 5 tháng Giêng: Quân Thanh bị bại.
Tôn Sĩ Nghị mang tàn quân chạy về Bắc.
Vào cuối năm ngoái (Mậu Thân, 1788) quân của
Nguyễn Huệ nước An Nam vượt sông Gián Thủy đánh bại quân phòng thủ của Lê Duy Kỳ
(Lê Chiêu Thống); lại bắt toán quân Thanh tuần thám giết sạch. Ngày mồng hai,
Tôn Sĩ Nghị được tin hoảng hốt ngự địch; ra lệnh Tổng binh Trương Triều Long
mang 3000 quân tăng cường cho các đồn Hà Hồi, Ngọc Hồi để chống cự, lại ra lệnh
cho Đề đốc Hứa Thế Hanh mang 1500 tên, tự đốc suất 1200 tên để tiếp ứng. Quân
Nguyễn Huệ tiến tới đông như ong vây đồn 4 phía, đánh nhau một ngày một đêm,
quân Thanh bị đánh tan bèn bỏ chạy.
Vào
canh năm ngày này (mồng 5) Nguyễn Văn Huệ mang đại binh tiến đánh, thân tự đốc
chiến, dùng 100 thớt voi khỏe làm tiên phong. Rạng sáng quân Thanh cho kỵ binh
nghênh địch. Vào giờ Ngọ quân Nguyễn bắn hỏa châu, hỏa tiễn tới tấp; lại dùng rạ
bó to lăn mà tiến đều, khinh binh theo sau, trước ngã sau tiến lên một lòng quyết
chiến, tại các trại quân Thanh đồng thời tan vỡ, quân Nguyễn thừa thắng chém giết,
quân Thanh tử thương quá nửa.
Đề
đốc Hứa Thế Hanh thấy thế lực nhiều ít rõ ràng, bảo gia nhân đem ấn triện Đề Đốc
mang đi, rồi ra sức đánh, bị chết tại trận. Lúc này quân địch càng bị giết càng
nhiều, chia cắt quân Thanh từng nhóm rồi vây kín. Thống soái Tôn Sĩ Nghị mất
liên lạc với Hứa Thế Hanh và các đại viên Đề Trấn; bèn ra lệnh Phó tướng Khánh
Thành, Đức Khắc Tinh Ngạch mang 300 quân đoạt vây chạy về phía Bắc. Khi tàn
quân của Tôn Sĩ Nghị chạy đến bờ sông, thì số quân Thanh 3000 tên trú đóng tại
bờ phía Nam đã được Tổng binh Thượng Duy Thanh mang đi tiếp ứng cho Hứa Thế
Hanh, bèn ra lệnh cho Tổng binh Lý Hóa Long vượt qua cầu nổi chiếm cứ bờ phía Bắc,
để tiện việc yểm hộ qua sông. Không ngờ Lý Hóa Long đi đến giữa cầu, trượt chân
rơi xuống nước chết, số quân mang đi kinh hãi không biết làm gì. Tôn Sĩ Nghị ra
lệnh Khánh Thành yểm hộ mặt sau bằng cách bắn súng điểu thương vào quân Nguyễn
Văn Huệ đang truy kích, riêng mình tự mang quân theo cầu nổi lui về bờ phía Bắc;
rồi lập tức cho chặt đứt cầu nổi, cùng với bọn Khánh Thành rút lui về sông Thị
Cầu.
Quân
Thanh tại phía Nam sông thấy cầu đã bị đứt chìm, không có đường về, bèn đánh trở
lại thành nhà Lê. Các Tổng binh Thượng Duy Thăng, Trương Triều Long, Phó tướng
Na Đôn Hành, Tham tướng Dương Hưng Long, Vương Tuyên, Anh Lâm đều tử trận. Tri
châu Điền Châu Sầm Nghi Đống không được viện binh đành tự tử, số thân binh tự tử
cũng đến hàng trăm. Quốc vương An Nam Lê Duy Kỳ vào lúc binh thua, tới dinh Tôn
Sĩ Nghị họp bàn, thấy Tôn Sĩ Nghị đã bỏ chạy, bèn hoảng hốt vượt sông chạy lên
phía Bắc, đến đây nhà Lê diệt vong.
Nguyễn
Văn Huệ xua quân tiến vào thành, chiến bào mặc trên người nhuốm đen, do bởi thuốc
súng. Đề đốc Ô Đại Kinh mang đạo quân Thanh tại Vân Nam xuất phát từ Mã Bạch
Quan vào ngày 20 tháng 11 năm ngoái (Mậu Thân, 1788), đến Tuyên Quang vào ngày
21 tháng 12; khi đến sông Phú Lương thấy cầu nổi bằng tre đã bị chìm đứt, nhìn
sang bên kia bờ thấy lửa rực bốn phía, bèn triệt hồi Tuyên Quang, rồi lập tức
lui vào trong nước”.
(Thanh Thông Giám, quyển 146, trang 4565 – 4567, trích dịch tài liệu của Hồ Bạch Thảo, đăng trong Đặc San Tây Sơn Bình Định, Xuân Bính Tuất 2006, trang 145)
8. Nhận Định Tình Hình Và Chủ Trương Của Vua Càn Long
Sau Khi Vua Quang Trung Đại Thắng Quân Thanh
Nhận được tờ tấu của Tôn Sĩ Nghị, để vớt vát thể diện
cho danh tiếng của quân đội thiên triều, một đại cường quốc tại Á Châu thời bấy
giờ, vua Càn Long đã ra tờ dụ cho các Quân Cơ Đại Thần với mục đích tìm kiếm
hòa bình, không đem quân trả thù:
“Trẫm trước kia đã cho rằng Lê Duy Kỳ mềm yếu
không có khả năng, xem ra trời đã ghét họ Lê nên không thể hỗ trợ được, mà dân
tình An Nam lại phản phúc khó tin; nên đã giáng chỉ dụ lệnh Tôn Sĩ Nghị cấp tốc
triệt binh. Nếu như Tôn Sĩ Nghị nhận được chỉ dụ bèn lập tức triệt hồi, thì
ngày hôm nay đại quân đã về đến cửa quan ải rồi. Nay Nguyễn Huệ dám ra mặt chặn
đánh, nguyên do là Tôn Sĩ Nghị hy vọng Nguyễn Huệ sẽ hối lỗi đầu hàng để mọi việc
được hoàn mỹ, nên chần chừ ngày giờ, mới xảy ra như vậy. Hiện tại vào tiết mùa
Xuân, tại nơi này mưa nhiều, lắm chướng khí; nếu muốn cử đại binh cũng chưa phải
lúc. Huống chi các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây trước đây tiếp tục điều binh, thì
đã ra lệnh đình chỉ; nay lại rầm rộ truyền hịch điều động, thì cũng không đáp ứng
được tình hình khẩn cấp, mà lại khiến cho lòng người thêm kinh hãi. Nói tóm lại
đem binh triệt hồi, vẹn toàn quốc thể là điều cốt yếu”
(Cao Tông Thực Lục, sđd, quyển 1321, tờ 868, bản dịch của Hồ Bạch Thảo, đăng trong Đặc San Tây Sơn Xuân Bính Tuất 2006 trang146-147 như trên).
Tiếp theo lời dụ nầy, vua Càn Long đã nhận xét về hoàn
cảnh của Tôn Sĩ Nghị như sau:
“Tôn
Sĩ Nghị là người thống suất toàn quân, không thể làm việc mạo hiểm; viên Tổng Đốc
phá vòng vây để ra, hành động này rất đúng. Thứ đến, Hứa Thế Hanh là viên chức
lớn với cấp bực Đề Đốc cũng rất quan hệ; hiện nay chưa có tin tức, đang hết sức
trông ngóng. Hai người phải lưu tâm thận trọng, đốc suất quan binh đến ải gấp.
Theo lời tâu của Tôn Vĩnh Thanh thì Lê Duy Kỳ đến quan ải vào ngày 7 tháng
Giêng, (Kỷ Dậu, 1789) hiện cho trú tại Nam Ninh. Bàn về việc hành quân từ trước
tới nay không phải mỗi lần ra quân đều thuận lợi, như các cuộc hành quân tại
Tân Cương, Tây Lộ, cho đến Lưỡng Kim Xuyên đều có những tổn thất nhỏ rồi mới
thành công. Lần nầy Tôn Sĩ Nghị mang quân đến An Nam đánh giặc thành công quá dễ,
nay có sự tổn thất biết đâu đây chính là Nguyễn Huệ tự mang lấy mầm diệt vong vậy.
Tôn Sĩ Nghị và Hứa Thế Hanh hãy mang quân ra cho vẹn toàn, đừng làm tổn thương
quốc thể; tương lai có liệu biện việc này hay không do chính Trẫm thao túng, rồi
sẽ từ từ quyết định. Còn việc Tôn Sĩ Nghị tâu xin cách chức trị tội; thì việc tổn
thương này ngoài ý muốn, không phải do viên Tổng Đốc lầm lỡ mạo muội, tại sao lại
tâu như vậy! Viên Tổng Đốc phải gia tăng trấn tĩnh để lo liệu việc triệt thoái,
chớ nên hoang mang ý loạn, đó là điều hết sức quan trọng. Chắc bọn Nguyễn Huệ
cũng không dám xâm phạm biên giới của Thiên triều”.
(Cao Tông Thực Lục, quyển 1321 tờ 868- 869, sđd, như
trên)
Rồi nhà vua chỉ thị đem quân đi tiếp ứng để phòng thủ
biên giới:
“Tuy
nhiên dọc theo quan ải cần dàn binh lực để làm mạnh thanh thế và chuẩn bị việc
tiếp ứng. Hiện theo lời tâu của Tôn Vĩnh Thanh đã điều một ngàn quân tiến trước
hợp với quân phòng thủ gồm 3000 tên sẽ lo điều động thêm. Nay dụ Tôn Vĩnh Thanh
hãy tính toán kỹ, nếu số binh lính không đủ dùng, thì có thể một mặt tiếp tục
điều tại các doanh, một mặt tấu lên. Quân Quảng Tây hiện đang triệt hồi, còn đạo
quân Vân Nam do ngã Tuyên Quang An Biên cũng phải triệt thoái gấp. Quân lính tại
các doanh đồn trú tại Vân Nam tương đối nhiều, nếu quân số dưới quyền của Phú
Cương và Ô Đại Kinh hiện nay không đủ dùng, thì đừng ngị lấy thêm quân từ các
doanh để phòng thủ dọc biên giới, khiến cho thanh thế càng thêm mạnh mẽ”.
(Cao Tông Thực Lục, quyển 1321 tờ 869, sđd như trên)
(Xin lưu ý: Ông
Hồ Bạch Thảo có nhận xét: Theo Thanh Thông Sử: số quân 3000 người mà Tôn Vĩnh
Thanh điều động cho công tác phòng thủ biên giới là sử nhà Thanh cố ý nói bớt
đi vì “theo Thanh Thông Sử, lúc bấy giờ dân Trung Quốc tại vùng biên giới Quảng
Đông, Quảng Tây nghe tin quân Nguyễn Huệ sẽ sang trả thù rửa hận, nên đều bỏ chạy
để nhà cửa trống không; tình hình như vậy mà chỉ có vài ngàn quân phòng thủ
biên giới, thì chắc số lính này cũng không có gan ở lại để phòng thủ! Tham khảo
với các sách khác, về quân số nhà Thanh thường nói bớt khoảng mười lần!”...)
Vua Lê Chiêu Thống chạy qua Trung Quốc, gặp Tôn Sĩ Nghị.
Đi theo vua có 8 người hầu là Hoàng Ích Hiểu, Nguyễn Quốc Đống, Lê Hân, Phạm
Như Tùng, Nguyễn Viết Triệu, Phạm Đình Thiện, Lê Văn Chương, và Lê Quý Thích
(KĐVSTG Cương Mục, quyển 47, bản dịch, tr.848).
Tại trấn Nam Quan, khi chia tay với Tôn Sĩ Nghị, vua nói: “Tôi không giữ nổi xã tắc, tự biết sỉ nhục phải phiền ngài đem quân sang cứu. Tôi lấy làm cảm kích vô cùng. Nay ngài lại bỏ tôi mà đi, tôi không dám lại làm phiền ngài nữa. Tôi xin trở về nước, lượm lặt quân và dân để toan tính cử sự sau này”. Tôn Sĩ Nghị nói: “Đã tâu xin thêm quân rồi. Chẳng bao lâu đại quân sẽ đến”. Tôn Sĩ Nghị mời nhà vua vào thành Quế Lâm yên nghỉ, vua theo lời.
(KĐVSTG Cương Mục, sđd như trên, tr.848)
Sau khi ra lệnh cho quân đội tăng cường phòng thủ biên
giới, vua Càn Long cho Đại thần là Phúc Khang An đến thay thế Tôn Sĩ Nghị làm Tổng
Đốc Lưỡng Quảng, tổ chức lại binh mã 9 tỉnh phía Nam và chuẩn bị để đánh nước
ta.
Chú
thích:
(1)
Về chức vụ của Sầm Nghi Đống: sử nhà Thanh (Thanh Thông Sử) viết Sầm Nghi Đống
là Tri Châu ở Điền Châu; -Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục và Đại Nam Liệt
Truyện Chính Biên viết Sầm Nghi Đống là Tri phủ Điền Châu; -Hoàng Lê Nhất Thống
Chí viết Sầm Nghi Đống là Thái thú Điền Châu.
(2) Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục viết Tổng binh Quảng Đông là Trương Sĩ Long;- Thanh Thông Sử và các tài liệu khác đều viết là Tổng binh Quảng Đông là Trương Triều Long.
(3) Trong trận Ngọc Hồi, các sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Đại Nam Liệt Truyện Chính Biên, cũng như các sử gia Trần Trọng Kim, Nguyễn Phương, nhóm sử gia CS ở Hà Nội trong các tài liệu nghiên cứu lịch sử đều nói rằng Quân Tây Sơn đã dùng 3 tấm ván kết lại, 10 người khiêng đi trước để đỡ đạn, có 20 người núp đàng sau dùng đoản đao, khi đến gần thì ném bỏ tấm ván đi mà đánh cận chiến. Nhưng theo Thanh Thông Sử và Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục thì quân Tây Sơn đã dùng những bó rơm lớn cuốn tròn để làm bia đỡ đạn?
GS Nguyễn Lý-Tưởng
(Thanh Thông Giám, quyển 146, trang 4565 – 4567, trích dịch tài liệu của Hồ Bạch Thảo, đăng trong Đặc San Tây Sơn Bình Định, Xuân Bính Tuất 2006, trang 145)
(Cao Tông Thực Lục, sđd, quyển 1321, tờ 868, bản dịch của Hồ Bạch Thảo, đăng trong Đặc San Tây Sơn Xuân Bính Tuất 2006 trang146-147 như trên).
Tại trấn Nam Quan, khi chia tay với Tôn Sĩ Nghị, vua nói: “Tôi không giữ nổi xã tắc, tự biết sỉ nhục phải phiền ngài đem quân sang cứu. Tôi lấy làm cảm kích vô cùng. Nay ngài lại bỏ tôi mà đi, tôi không dám lại làm phiền ngài nữa. Tôi xin trở về nước, lượm lặt quân và dân để toan tính cử sự sau này”. Tôn Sĩ Nghị nói: “Đã tâu xin thêm quân rồi. Chẳng bao lâu đại quân sẽ đến”. Tôn Sĩ Nghị mời nhà vua vào thành Quế Lâm yên nghỉ, vua theo lời.
(KĐVSTG Cương Mục, sđd như trên, tr.848)
(2) Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục viết Tổng binh Quảng Đông là Trương Sĩ Long;- Thanh Thông Sử và các tài liệu khác đều viết là Tổng binh Quảng Đông là Trương Triều Long.
(3) Trong trận Ngọc Hồi, các sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Đại Nam Liệt Truyện Chính Biên, cũng như các sử gia Trần Trọng Kim, Nguyễn Phương, nhóm sử gia CS ở Hà Nội trong các tài liệu nghiên cứu lịch sử đều nói rằng Quân Tây Sơn đã dùng 3 tấm ván kết lại, 10 người khiêng đi trước để đỡ đạn, có 20 người núp đàng sau dùng đoản đao, khi đến gần thì ném bỏ tấm ván đi mà đánh cận chiến. Nhưng theo Thanh Thông Sử và Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục thì quân Tây Sơn đã dùng những bó rơm lớn cuốn tròn để làm bia đỡ đạn?
5 nhận xét:
Qua thăm nhà đọc bài về Vua Quang Trung .. Mới đọc qua một lượt .. Mình thì ở Gần Gò Đống Đa Hà Nội năm nào ngày 5 tết cũng lễ hội ở đây .. Mình thì khg đi sâu về lịch sủ .. Nhưng thấy chế đọ ta Tông bốc tô hòng cho Quang Trung quá ...Mình thì thấy Nếu Quang Trung là tướng thì tốt còn làm vua thì .. Không thể tốt .. Sau khi dẹp xong nhà Trinh .. Nhà Nguyễn thì chạy ra Phú Quốc .. Siêm .. Thì 3 anh em Quang Trung chia đát nước ra làm 3 và tự quản .. Lại còn đánh nhau mà người ta nói là Huynh đệ tương tàn .. Tự Xưng vua sau khi lấy Công Chúa nhà Lê .. Và Lê Chiêu Thống chạy sang Tấu xin chi viện .. Cho nên mới có trận Đống Đa .. Vậy thì làm sao mà cải cách ? ..Và cũng chỉ làm vua được 14 năm
Rồi rơi vào tay nhà Nguyễn .. Tôi nghĩ vậy đó anh ạ
Bác Quang Thái à !
Cuộc tranh chấp giữa 3 anh em Tây Sơn, chủ yếu là giữa Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ thôi. Còn Nguyễn Lữ chỉ nhận tước phong Đông Định Vương và lo trấn thủ Gia Định cùng miền Nam. Khi quân Xiêm theo cầu viện của Nguyễn Ánh kéo sang Việt Nam thì chính Nguyễn Huệ mang quân từ miền Trung vào phá tan 20 vạn quân Xiêm. Sau này, Nguyễn Nhạc từ bỏ ngôi vua (với danh xưng Thái Đức hoàng đế), tự nhận làm Tây Sơn Vương, trao quyền lãnh đạo đất nước cho vua Quang Trung. Sau đại thắng quân Thanh năm Kỷ Dậu (1789), Quang Trung đã chuẩn bị binh lực tiến vào Nam đánh dẹp Nguyễn Ánh (lúc này đánh cho Nguyễn Lữ liểng xiểng). Tiếc thay, ông bị đột quỵ và mất sớm.
Về việc trị nước, Quang Trung có La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, Ngô Thời Nhiệm... giúp rập nên có những quốc sách khá tốt... Tuy nhiên ông mất sớm, bỏ dỡ những việc lớn chưa làm. Con ông, Quang Toản tài hèn lại tham lam, sau khi giải cứu Quy Nhơn thì có những ép buộc làm bác ruột của mình Tây Sơn Vương Nguyễn Nhạc phải tự tử, gây chia rẽ, bất hòa trong nội bộ Tây Sơn là mầm mống diệt vong về sau...
Suy nghĩ của anh tôi cũng hiểu được thêm nhiều .. Cám ơn anh.. Vì tôi đọc trên mạng thấy toàn nói hay đến mức quá đáng .. Bạn của tôi đều là những người có học .. Nhiều lần đi hội đống đa gặp nhau nói chuyện đầu nói là .. Làm tướng thì tốt còn làm vua thì tồi ... nên đã mấy năm nay chúng tôi khg bao giờ đi Hội Đống đa nữa .. Chỉ nghe bài nói chuyện nhàm chán của Quân Đống đa ..cứ giống nhay .. Mà chán ...
Mạng thì phức tạp và "hổ lốn" lắm! Bác tìm đọc những bài của học giả chuyên khảo về Tây Sơn và Nhà Nguyễn có ích hơn nhiều. Tất nhiên "nhất tướng công thành vạn cốt khô", Nguyễn Huệ nói riêng và nhà Tây Sơn nói chung có những thủ đoạn tàn ác với dòng Nguyễn Phúc, việc trưng binh quyết liệt sắt máu, nhưng thành quả quân sự oanh liệt. Chỉ có những quốc sách áp dụng chưa bao lâu thì Nguyễn Huệ mất sớm, nhà Tây Sơn suy tàn...
Ngày Chủ nhật thanh thản bác Quang Thái nhé!
https://1.bp.blogspot.com/-dm_lzNUOi_Q/YDG7feEVFkI/AAAAAAAAA5I/duFadWfBQLofPSHAS0GOEhWFa89GxlNgACLcBGAsYHQ/w400-h374/SUNDAY%2B%25285%2529.gif
Đăng nhận xét